R
hyme nhìn vào bộ râu kì quái, những cái khuyên hình gậy trên tai và lông mày.
Một phần của các hình xăm lộ ra trên hai mu bàn tay Gordon; phần còn lại biến mất dưới áo len. Rhyme tin là mình có thể đoán ra chữ POW! trên cổ tay phải.
Anh không đưa ra kết luận gì về vẻ ngoài của người đàn ông này. Từ lâu anh đã từ bỏ thói quen sai lầm là đánh giá cốt lõi của một con người từ vẻ bề ngoài của anh ta hay cô ta. Tình trạng của anh chính là một điển hình cho cách nghĩ này.
Phản ứng chính của anh là: Những cái khuyên kia gây đau đớn đến mức nào? Đây là một điều Rhyme có thể liên tưởng được; tai và lông mày là những bộ phận anh còn cảm nhận được cái đau. Và một ý nghĩ khác: Nếu TT Gordon giả sử có bị tóm thì anh ta sẽ bị gọi ra ngay tắp lự từ một hàng nghi phạm.
Một cái gật đầu về phía Sellitto, vị thanh tra chào đáp lại.
“À này. Cái câu xe lăn tôi vừa nói ấy mà! Nghe thì hơi ngớ ngẩn nhưng thật ra không phải vậy đâu,” Gordon nói, vừa cười vừa nhìn tất cả mọi người trong phòng. Ánh mắt anh ta quay lại về phía Rhyme. “Hiển nhiên là anh ngồi trên xe lăn rồi. Ý tôi là, ô, anh chính là anh bạn nổi tiếng ngồi xe lăn kia. Trước đó tôi đã không nghĩ ra. Khi anh ta” – một cái hất cằm về phía Sellitto – “tới cửa hàng tôi, anh ta chỉ bảo “nhà tư vấn.” Anh đã lên báo đấy. Tôi từng thấy anh trên tivi. Sao anh không làm cái chương trình Nancy Grace ấy nhỉ? Như thế sẽ rất ngầu. Anh có xem nó không?”
Rhyme luận ra đây chỉ là cách nói luyên thuyên tự nhiên, không phải kiểu lúng túng khi ai đó không muốn ở cùng một thằng què. Với Gordon, dường như khuyết tật chỉ là một đặc điểm khác trong con người Rhyme, như mái tóc tối màu, cái mũi tẹt hay cặp mắt sắc sảo và những móng tay được cắt gọn vậy.
Một đặc điểm nhận dạng, chứ không phải điểm nhấn chính trị gì.
Gordon cũng chào những người khác, Sachs, Cooper và Pulaski. Rồi anh ta nhìn quanh phòng, nơi mà Rhyme từng có lần mô tả là Hewlet-Packard thời Victoria. “Hừm. Ngầu quá đi.”
Sachs nói, “Chúng tôi rất biết ơn vì anh đã đến đây để giúp đỡ chúng tôi.”
“À, không có gì đâu. Tôi muốn hạ gã này. Gã đó, hắn đang làm gì chứ? Việc này gây ra tác hại với tất cả những người đang tạo hình để kiếm sống.”
“Điều đó có nghĩa gì vậy? “Tạo hình” ấy?” Sachs hỏi.
“Thay đổi cơ thể, cô biết đấy. Xăm mình, xỏ khuyên, cắt gọt.” Anh ta gõ vào những cây gậy trên tai mình. “Mọi thứ. “Tạo hình” bao gồm toàn bộ. Tôi không thực sự biết là những gì.”
Rhyme nói, “Lon kể rằng cậu có kha khá quan hệ trong giới xăm mình ở đây và cậu không hề biết kẻ này có thể là ai.”
Gordon xác nhận điều đó.
Sellitto nói thêm rằng Gordon cũng đã xem bức ảnh chụp hình xăm nhưng vẫn muốn nhìn rõ hơn; bản in không được rõ ràng cho lắm.
Cooper nói, “Tôi sẽ lấy tệp .nef ra và lưu lại dưới dạng .tiffs đã tăng cường độ nét.”
Rhyme không hiểu anh ta đang nói chuyện gì. Hồi anh vẫn còn làm công việc khám nghiệm hiện trường, bản thân anh dùng những thước phim 35mm thực, loại phải tráng qua hóa chất và in ra trong phòng tối. Hồi ấy bạn phải tính toán từng khung hình một. Giờ thì sao? Bạn cứ việc bấm thoải mái trong hiện trường rồi lọc sau.
Cooper nói, “Tôi sẽ gửi chúng sang máy Nvidia – màn hình lớn đằng đó.”
“Sao cũng được, anh bạn. Miễn là nó sắc nét.”
Pulaski hỏi, “Anh xem The Big Lebowski rồi à?”
“Ối chà.” Gordon cười toe toét và giơ một nắm đấm về hướng Pulaski. Anh lính mới đáp lại y chang.
Rhyme thắc mắc: Có lẽ lại Tarantino.
Hình ảnh xuất hiện trên màn hình lớn nhất trong phòng.
Chúng là những bức ảnh có độ phân giải cực cao chụp hình xăm trên bụng Chloe Moore. TT Gordon chớp mắt vì bị sốc trước làn da thương tích, những chỗ sưng phồng và biến đổi màu. “Tệ hơn tôi tưởng, chỗ bị đầu độc và mọi thứ. Giống như hắn tự tạo ra vùng nóng của chính mình vậy.”
“Đó là cái gì?”
Gordon giải thích rằng các tiệm xăm hình được chia thành từng khu vực, nóng và lạnh. Vùng lạnh là nơi không có nguy cơ lây nhiễm chéo từ máu khách hàng này sang khách hàng kia. Không cần tiệt trùng kim hay các bộ phận máy móc hay bàn ghế chẳng hạn.
Hiển nhiên vùng nóng là nơi đối lập, các máy xăm và kim tiêm đã bị dây máu và dịch cơ thể của các khách hàng. “Chúng tôi làm mọi việc có thể để tách rời hai nơi. Nhưng ở đây, gã này làm việc ngược lại – cố ý gây lây nhiễm, à, đầu độc cô gái. Trời ạ. Quá điên.”
Nhưng rồi nghệ sĩ xăm chuyển sang trạng thái nghiền ngẫm mà Rhyme thấy đáng khích lệ. Gordon nhìn chiếc máy tính. “Tôi dùng được chứ?”
“Chắc chắn rồi,” Cooper nói.
Nghệ sĩ bấm vài nút rồi kéo hình ảnh xuống, phóng to vài cái.
Rhyme hỏi, “TT, cụm từ “lần thứ hai” có ý nghĩa đặc biệt nào với giới xăm hình không?”
“Không. Theo chỗ tôi được biết thì không có nghĩa gì cả, và tôi đã làm nghề xăm gần hai mươi năm rồi. Đoán là nó có ý nghĩa gì đó với kẻ đã giết hại cô gái. Hoặc với nạn nhân.”
“Có thể là với thủ phạm,” Amelia Sachs giải thích với Gordon. “Không có bằng chứng cho thấy hắn biết Chloe trước khi giết cô ấy.”
“Ồ. Cô ấy tên là Chloe à.” Gordon lẩm bẩm điều này. Anh ta chạm vào chòm râu của mình. Rồi kéo hình ảnh xuống thêm. “Việc khách hàng tự nghĩ ra một câu hay thông điệp để xăm mình khá là kì lạ. Thi thoảng tôi cũng xăm một bài thơ họ tự viết. Nói thật hầu hết chúng đều dở ẹc. Mặc dù vậy, thông thường khi ai đó muốn xăm chữ, đó sẽ là một cụm từ trong cuốn sách yêu thích của họ. Kinh Thánh. Hoặc một câu trích dẫn nổi tiếng. Hoặc một câu nói, cô biết đấy. “Sống Tự do hay là Chết.” “ Sinh ra để Lái xe.” Những thứ đại loại như vậy.” Rồi anh ta cau mày. “Hừm. Được rồi.”
“Sao?”
“Có thể là một nửa.”
“ Và đó là?” Rhyme hỏi.
“Vài khách hàng chia đôi hình xăm của họ. Họ xăm một nửa từ đó lên một cánh tay rồi nửa còn lại lên cánh tay kia. Đôi khi họ sẽ cho xăm một phần của hình xăm lên cơ thể mình, còn bạn gái hoặc bạn trai thì xăm nửa còn lại.”
“Tại sao?” Pulaski hỏi.
“Còn sao nữa?” Gordon có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi. “Hình xăm kết nối con người mà. Đó là một phần của mục đích xăm mình. Kể cả nếu anh có những hình độc, anh vẫn là một phần của thế giới hình xăm. Anh đã có một điểm chung, anh biết đấy. Việc đó kết nối anh, thấy không, anh bạn?”
Sachs nói, “Có vẻ như anh nghiền ngẫm về tất cả những việc đó khá nhiều đấy nhỉ.”
Gordon cười lớn. “Ồ, tôi có thể thành nhà tâm lí được ấy chứ.”
“ Freud,” Sellitto nói.
“Chuẩn luôn anh bạn,” Gordon trả lời bằng một nụ cười toe toét. Lại giơ nắm đấm ra. Sellitto không đáp lại.
Sachs hỏi, “Và anh có thể nói cho chúng tôi biết bất kì điều gì cụ thể về hắn không?”
Sellitto nói thêm, “Chúng tôi sẽ không trích lời cậu. Hay đưa cậu lên bục nhân chứng đâu. Chúng tôi chỉ muốn biết gã này là ai. Hiểu đầu óc hắn.”
Gordon ngập ngừng nhìn lại thiết bị.
“Được rồi. Đầu tiên, hắn có năng khiếu, một tài năng nghệ thuật thực thụ chứ không phải chỉ là một kĩ thuật viên. Rất nhiều thợ xăm chỉ là những kẻ vẽ theo hình kẻ sẵn. Họ chỉ đắp lên một cái khuôn mà ai đó đã vẽ rồi tô theo. Nhưng” – một cái hất cằm về phía bức ảnh – “không có bằng chứng nào cho thấy có khuôn ở đó. Hắn đã dùng đường viền máu.”
“Nó là cái gì?” Rhyme hỏi.
“Hầu hết các nghệ sĩ đều vẽ trước một đường viền bao ngoài hình xăm trên da. Vài người vẽ tay bằng bút bi – loại mực tẩy được bằng nước. Nhưng anh chàng của các anh không làm vậy. Hắn cứ thế bật máy xăm lên và dùng kim viền để vẽ viền ngoài, nên thay vì viền mực anh có một cái viền bằng máu ở ngoài rìa thiết kế của mình. Vì vậy nó được gọi là đường viền máu. Chỉ có những nghệ sĩ xăm giỏi nhất mới làm vậy.”
Pulaski hỏi, “Vậy là một dân chuyên?”
“Ồ, phải, anh chàng này chắc chắn phải là dân chuyên. Như tôi đã kể với anh ta.” Một cái hất cằm về phía Sellitto. “Hoặc từng là. Với trình độ như thế kia ư? Hắn có thể mở hẳn một tiệm riêng trong một nốt nhạc. Và có khi hắn còn là một nghệ sĩ thực thụ - ý tôi là họa sĩ với sơn, bút mực và mực và mọi thứ khác ấy. Và tôi không nghĩ hắn xuất thân từ đây. Vì thứ nhất, nếu có thì tôi đã nghe rồi. Cũng không phải trong các bang lân cận đây. Làm việc này trong có mười lăm phút ư? Trời ơi, nhanh như điện ấy. Tên của hắn chắc hẳn phải được bàn tán khắp nơi rồi. Rồi, nhìn vào kiểu chữ mà xem.”
Mắt Rhyme và tất cả những người khác đều đổ lên màn hình.
“Nó là dạng tiếng Anh cổ, hay một biến thể Gothic nào đó. Thời nay các anh không bắt gặp cái đó nhiều quanh đây đâu. Tôi đoán hắn có xuất thân nông thôn: nông dân, giai làng, đầu gấu thôn, nấu lậu thuốc phiện. Mặt khác, cũng có thể là người theo chủ nghĩa tái sinh, đạo đức, đáng trọng. Nhưng chắc chắn là giai nông thôn.”
“Kiểu chữ cho anh biết từng đó ư?” Sachs hỏi.
“Ồ đúng vậy. Ở đây, nếu có ai muốn xăm chữ, họ sẽ làm theo kiểu văn hoa bay bướm hoặc phông sans serif bôi đậm. Ít nhất đó là xu hướng hiện nay. Trời ơi, mấy năm trước ai ai cũng đòi làm cái chữ Elvish vớ va vớ vẩn.”
“Elvis Presley à?” Sellitto hỏi.
“Không, Elvish. Chúa tể những chiếc nhẫn cơ.”
“Vậy là nông thôn,” Rhyme nói. “Có vùng miền nào cụ thể không?”
“Không hẳn. Trong giới có kiểu xăm thành thị và kiểu nông thôn. Tất cả những gì tôi có thể khẳng định là hình này nghe mùi nông thôn. Anh nhìn vào đường viền xem. Hình vỏ sò. Kĩ thuật này gọi là tạo sẹo. Hay tên chính thức là quy trình lên da non. Việc ấy rất quan trọng.”
Anh ta nhìn lên và gõ vào đường viền hình vỏ sò quanh những chữ “lần thứ hai.”
Điểm đáng lưu ý ở đây là thường người ta tạo sẹo để gây sự chú ý tới một hình ảnh. Còn gã này lại chủ đích tạo cho thiết kế ấy sự nổi bật. Công việc của hắn sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ việc xăm một đường viền. Nhưng không, hắn lại muốn có vết sẹo lên da non ở đó cơ. Có một lí do cho việc đó, tôi đoán vậy. Không có đầu mối nào. Nhưng chắc chắn là có.
“Giờ, còn một việc nữa. Tôi đang nghĩ về nó. Tôi mang cả đồ minh họa đây.” Gordon thò tay vào trong túi vải đeo vai và lôi ra một cái túi nhựa đựng vài bộ phận bằng kim loại. Rhyme nhận ra chiếc túi nhựa trong suốt kia là loại dùng để đựng các dụng cụ phẫu thuật và khám nghiệm pháp y khi tiệt trùng chúng bằng tia cực tím. “Đây là các bộ phận của một chiếc máy xăm – nhân tiện, chúng không được gọi là súng đâu nhé.” Gordon cười. “Dù trên tivi các anh có nghe thấy gì chăng nữa.”
Anh ta lấy một con dao quân đội Thụy Sĩ nhỏ từ trong túi ra và cắt cái túi nhựa. Một lát sau anh ta lắp chiếc súng xăm – à, máy xăm hoàn chỉnh. Nghệ sĩ xăm bước đến gần mọi người hơn. “Đây là những chiếc lò xo nhấc kim lên xuống. Đây là cái ống đựng mực còn đây là bản thân cái kim, thò ra ngoài.”
Rhyme có thể trông thấy nó, rất nhỏ bé.
“Các cây kim phải cắm xuống lớp hạ bì – lớp da ngay dưới lớp ngoài cùng.”
“Còn được gọi là biểu bì,” Rhyme nói.
Gordon gật đầu và tháo thiết bị ra, nhấc cây kim lên cho mọi người cùng thấy. Nó trông giống một cái xiên thịt nướng mỏng, dài khoảng bảy phân, một đầu dạng khuyên tròn. Đầu kia là một nhóm kim tí hon được hàn cứng hay hàn xì lại với nhau. Chúng kết thúc bằng các đầu nhọn.
“Thấy cái cách chúng dính vào nhau thành hình ngôi sao không? Tôi tự làm ra chúng đấy. Hầu hết các nghệ nhân nghiêm túc đều làm vậy. Nhưng chúng tôi sẽ phải mua những mũi kim thường và kết hợp chúng với nhau. Có hai loại kim: loại đi nét – tạo các đường viền cho hình ảnh – và đến loại tô tròn hay tạo khối. Gã này cần phải đưa rất nhiều độc vào cơ thể cô gái thật nhanh. Điều đó có nghĩa là hắn phải dùng kim tô tròn sau khi đã vẽ đường viền máu. Nhưng những cái kim này không làm được thế, tôi nghĩ vậy. Chúng đâm không đủ độ sâu. Nhưng loại này thì có thể.” Anh ta lại thò tay vào túi và lôi ra một cái bình nhựa nhỏ. Anh ta lắc ra hai cái xiên bằng kim loại, tương tự như những mũi kim của mình nhưng dài hơn. “Chúng tới từ một loại máy xoay vòng kiểu cũ – những chiếc mới như cái của tôi là loại dao động hai chiều. Có phải máy của hắn là một chiếc máy cầm tay không?”
“Chắc chắn là như vậy. Ở đó không có nguồn điện,” Sachs bảo anh ta.
Pulaski nói, “Tôi đã tìm kiếm các loại súng… các loại máy mang đi được. Nhưng có rất nhiều loại.”
Gordon ngẫm nghĩ một lát rồi nói, “Tôi đoán nó phải là kiểu American Eagle. Có từ xưa lắm rồi. Một trong những mẫu đầu tiên chạy bằng pin. Nó có từ thời xăm mình không có nhiều tính khoa học cho lắm. Nghệ nhân có thể điều chỉnh lực đâm của những cây kim. Anh ta có thể khiến chúng đâm thực sự sâu. Tôi sẽ tìm xem ai có một cây Eagle.”
Sellitto hỏi, “Chúng có được bán ở đây không? Trong các cửa hàng dụng cụ ấy?”
“Tôi chưa gặp qua cái nào cả. Chúng không còn được sản xuất nữa. Tôi đoán anh có thể tìm được một cái trên mạng. Đó là cách duy nhất tìm được chúng.”
“Không, hắn sẽ không mua bất kì thứ gì theo cách đó đâu, quá dễ truy dấu,” Rhyme chỉ ra. “Có thể hắn đã mua nó ở nơi sinh sống. Hoặc đã có nó từ nhiều năm rồi hay được thừa kế từ ai đó.”
“Kim lại là câu chuyện khác. Anh có thể tìm được ai đó bán kim cho máy American Eagle. Bất kì ai mới gần đây mua loại kim này đều có thể là hắn.”
“Cậu vừa bảo sao?” Rhyme hỏi.
“Tôi vừa nói gì á?” Người đàn ông gầy gò cau mày. “Hồi nào, vừa nãy á? Bất kì ai mua kim cho một chiếc máy American Eagle, đó đều có thể là nghi phạm của anh. Không phải các anh vẫn nói thế à? Họ vẫn nói trên NCIS1 thế đấy.”
Nhà tội phạm học cười. “Không. Ý tôi nói đến cách dùng đại từ đúng cơ. Bổ ngữ ấy.”
Rhyme thấy Pulaski đang đảo mắt.
“Ồ, cái đó à? Từ “hắn” ấy hả?” Gordon nhún vai. “Tôi chưa bao giờ học… giỏi lắm ở trường. Anh tưởng tôi sẽ dùng từ “tốt” đúng không? Tôi cũng có vài năm theo học ở Hunter nhưng thấy chán, anh biết đấy. Nhưng từ khi tôi bắt đầu xăm mình, tôi đọc nhiều chữ lắm. Các đoạn trong Kinh Thánh, các đoạn văn trong sách, thơ thẩn. Nên tôi học cách viết từ những tác giả nổi tiếng. Cách đánh vần, ngữ pháp. Ý tôi là, anh bạn à, chuyện ấy khá thú vị đó. Cả thư pháp nữa. Cùng câu văn ấy trong phông chữ này mang lại ấn tượng hoàn toàn khác khi nó được in bằng phông chữ khác.
1 NCIS là viết tắt của Navy – Crimial – Investigative – Service, là một bộ phim truyền hình nổi tiếng của Mĩ.
“Đôi khi có một cặp đôi tới cửa hàng và muốn xăm lời thề hôn nhân lên cánh tay hay cổ chân. Hay những bài thơ tình dở hơi mà họ đã viết, như tôi từng kể. Tôi sẽ nói, được rồi, các bạn, các bạn có chắc mình muốn trải qua cả đời với câu “Jimmy em yêu anh anh là trái tim và của em mãi mãi” trên bắp tay không. Đó là chữ Jimmy không có dấu phẩy kèm theo, chữ anh không có dấu chấm hay chấm phẩy, rồi ANH với dấu móc sở hữu liền trước LÀ, và mãi mãi viết rời1. Họ sẽ nói, “Hả.” Dù sao tôi cũng sẽ chỉnh lại trong lúc xăm cho họ. Rồi họ sẽ sinh con và phải đi họp phụ huynh, gặp gỡ giáo viên tiếng Anh. Rốt cuộc, anh đâu có dùng được bút xóa đâu đúng không?”
1 Trong tiếng Anh, mãi mãi là một từ (forever).
“Và nút cắt và dán sẽ thực sự tồi tệ,” Pulaski nói đùa, gợi ra vài tiếng cười.
Nhưng Gordon thì không cười. “Ồ, cũng có một phương pháp tạo sẹo khi người ta thực sự cắt những mẩu da ra khỏi cơ thể họ đấy.”
Đúng lúc ấy Rhyme nghe thấy tiếng cạch ở cửa trước và cánh cửa mở ra – hay đúng hơn là gió rít lên và cơn mưa tuyết đổ xuống từ trên trời.
Cánh cửa đóng lại.
Sau đó là tiếng bước chân và giọng cười nhẹ bẫng, vui tươi.
Anh biết ai đã đến thăm và bắn vội cái nhìn sang Sachs, cô nhanh chóng đứng lên, xoay mặt bảng trắng đang chứa những bức ảnh chụp hiện trường Chloe Moore và đổi màn hình trình chiếu hình ảnh TT Gordon đang phân tích.
Một lát sau, Pam Willoughby bước vào phòng. Cô gái xinh xắn, thon thả mười chín tuổi đang quấn quanh mình chiếc áo choàng dài màu nâu gắn túm lông thú giả. Mái tóc đen dài của cô được cuộn lại bên dưới chiếc mũ trùm màu rượu vang, quần áo bên ngoài lấm chấm những bụi và bông tuyết đang bị tan ra rất nhanh. Cô vẫy tay chào tất cả.
Đi cùng cô là cậu bạn trai Seth McGuinn, một chàng trai hai mươi lăm tuổi, tóc đen và đẹp trai. Cô giới thiệu cậu ta với Pulaski và Mel Cooper, cậu ta chưa gặp cả hai người họ.
Cặp mắt nâu sậm của Seth rất giống mắt Pam. Lúc quay sang nhìn TT Gordon, mắt cậu chớp chớp ngạc nhiên dù anh ta đã chào hỏi họ rất lịch sự. Pam cũng có phản ứng tương tự. Rhyme đã trông thấy anh chàng Seth thích thể thao trong chiếc áo thun và quần đùi chạy, khi cậu ta đi cùng Pam tới công viên vài tuần trước, và anh chưa nhìn thấy hình xăm nào. Pam cũng không có, ít nhất là trong tầm mắt. Cặp đôi trẻ giờ đang cố gắng, một cách không mấy thành công, để che giấu sự ngạc nhiên của họ trước vị khách kì quái của Rhyme.
Pam tách mình ra khỏi cánh tay Seth, tiến đến hôn lên má Rhyme và ôm Thom. Seth bắt tay mọi người.
TT Gordon hỏi liệu họ có cần giúp đỡ gì thêm trong vụ này không. Sellitto nhìn quanh những người khác và khi Rhyme lắc đầu, anh ta bảo, “Cảm ơn cậu vì đã đến. Chúng tôi rất biết ơn.”
“Tôi sẽ để mắt đến bất cứ thứ gì kì quặc. Trong cộng đồng ấy mà, anh hiểu ý tôi chứ? Vậy chào nhé, các bạn.”
Gordon xếp lại đồ nghề, khoác vào người chiếc áo mỏng đến đáng thương và hướng ra cửa.
Seth và Pam chia sẻ một nụ cười lúc nhìn Gordon đi ra.
Sachs nói, “Này Pam. Chị nghĩ Seth cần thêm tí râu đấy.”
Chàng trai trẻ râu ria nhẵn nhụi gật đầu, cau mày. “Quỷ thật, em có thể hạ bệ anh ta. Em sẽ tết luôn.”
Pam bảo, “Thôi, xỏ khuyên ấy. Như vậy chúng ta có thể đổi hoa tai cho nhau.”
Seth nói cậu ta phải đi; sắp có hạn chót với hãng quảng cáo của mình. Cậu ta hôn nhẹ Pam cứ như Rhyme và Sachs là cặp phụ huynh thật sự của cô gái vậy. Rồi cậu ta gật đầu chào những người khác. Ở ngưỡng cửa mái vòm, cậu ta quay lại và nhắc Sachs và Rhyme rằng cha mẹ cậu ta muốn sớm được dùng bữa trưa hoặc bữa tối với họ. Thường thì Rhyme ghét các mối giao tế kiểu này nhưng kể từ khi xem Pam là người nhà, anh đã đồng ý đi. Và phải tự nhắc bản thân chịu đựng những câu nói sáo rỗng và cuộc chuyện phiếm bằng một nụ cười.
“Tuần tới thì sao?” Rhyme hỏi.
“Tuyệt. Bố em sẽ từ Hong Kong về.” Cậu ta nói thêm rằng cha mình vừa tìm được một cuốn sách của Rhyme về các hiện trường tội ác ở New York. “Có cơ hội nào để xin chữ kí không ạ?”
Cuộc phẫu thuật gần đây đã cải thiện khả năng kiểm soát cơ bắp của Rhyme tới mức anh đã thực sự viết được tên mình – không rõ ràng như trước khi gặp tai nạn nhưng cũng đủ ngay ngắn như bất kì vị bác sĩ nào lúc kê đơn thuốc. “Rất vui lòng.”
Khi cậu ta đã ra về, Pam cởi áo khoác và mũ, đặt chúng lên ghế rồi hỏi Sachs, “Vậy, tin nhắn của chị là sao ạ? Có chuyện gì thế?”
Thanh tra hất cằm về phía phòng khách bên kia hành lang, đối diện với phòng thí nghiệm/tiếp khách nhà Rhyme và bảo, “Sao chúng ta không đi vào kia nhỉ.”