L
incoln Rhyme quan sát thấy mình không gặp khó khăn gì khi đi tới phòng chăm sóc chuyên sâu của Trung tâm y tế Đại học Hunter, nơi Lon Sellitto đã được đưa vào không lâu trước đó. Tất nhiên nơi này đầy đủ các phương tiện cho người khuyết tật tiếp cận. Không gian chữa bệnh được thiết kế cho cả xe lăn lẫn bàn chân người.
“Ồ, Lincoln, Amelia.” Rachel Parker, bạn gái lâu năm của Sellitto đứng dậy và nắm tay Rhyme, rồi ôm Sachs. Chị quay sang Thom và cũng vòng tay ôm luôn anh ta.
Người phụ nữ xinh đẹp, rắn rỏi với gương mặt đỏ dừ vì khóc ngồi xuống một trong những chiếc ghế Fiberglas màu da cam trong căn phòng cũ kĩ. Đồ vật trang trí duy nhất trong phòng là hai chiếc máy bán hàng tự động, một cái cho sô đa, cái kia toàn là đồ ăn vặt mặn hoặc ngọt trong những chiếc túi bóng kính loại cứng.
“Anh ấy thế nào rồi?” Sachs hỏi.
“Họ còn chưa biết. Họ chẳng biết gì cả.” Rachel vuốt nước mắt. “Anh ấy về nhà. Anh ấy bảo mình bị cảm và chỉ muốn nằm nghỉ một lát. Lúc tôi chuẩn bị đi làm thì anh ấy đã có vẻ không ổn rồi. Tôi đi nhưng lại nghĩ, không, không, không phải anh ấy bị cảm. Chắc là một cái gì khác.” Rachel là y tá và đã làm việc trong phòng chấn thương nhiều năm. “Tôi quay về và thấy anh ấy đang co giật và nôn mửa. Tôi đặt ống thở và gọi cho chín một một. Nhân viên y tế nói có vẻ như đây là một vụ ngộ độc. Anh ấy đã ăn hay uống gì gần đây vậy? Họ nghĩ là do ngộ độc thức ăn. Nhưng không đời nào. Hai người phải trông thấy anh ấy cơ.”
“Sachs, cho họ xem phù hiệu đi. Bảo ai đó rằng Lon đang làm một vụ án có liên quan đến thủy độc cần, tetrodotoxin và nicotine cô đặc, và một loại cây có chứa atropine, hyoscyamine và scopolamine nữa. À, cả axít hipoclorơ. Thông tin ấy có thể giúp được họ.”
Cô ghi chép nhanh và đi đến phòng các y tá để đọc lại thông tin trên rồi quay về.
“Anh ấy có bị tấn công không? Bị xăm?” Rhyme hỏi. Rồi giải thích về phương thức gây án của nghi phạm.
“Không. Chắc là anh ấy ăn phải nó đấy,” Rachel nói. Chị vuốt thẳng mái tóc nâu đã lẫn vài lọn xám. “Trên đường đến bệnh viện anh ấy tỉnh lại một lát. Anh ấy bị mất phương hướng nhưng vẫn nhìn vào tôi và có vẻ nhận ra tôi. Mắt anh ấy liên tục đảo qua đảo lại lúc biết lúc không. Cơn đau thì thật kinh khủng! Tôi nghĩ anh ấy đã làm gãy một cái răng, hai hàm anh ấy siết lại với nhau ghê quá.” Một tiếng thở dài. “Anh ấy đã nói đôi điều. Đầu tiên, là anh ấy đã ăn một cái bánh vòng với ít cá hồi, kem phô mai. Trong một nhà hàng ăn nhanh ở Manhattan, ở trung tâm thành phố.”
“Rất khó có chuyện lẫn chất độc vào thức ăn của anh ấy trong một cơ sở công cộng như thế,” Rhyme nói.
“Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng anh ấy còn nói điều khác nữa.”
“ Đó là gì?” Sachs hỏi.
“Anh ấy gọi tên cô, Amelia. Rồi nói, “cà phê.” Hay “cà phê ấy.” Điều đó có nghĩa gì không?”
“Cà phê.” Sachs nhăn nhó. “Chắc chắn là có. Ở hiện trường Belvedere có một lính cứu hỏa đã đi vòng quanh với một hộp cà phê. Hắn ta mời cả hai chúng tôi. Lon lấy một cốc. Tôi thì không.”
“Lính cứu hỏa à?” Rhyme hỏi.
“Không,” Sachs cau có nói. “Đó là Nghi phạm 11-5, mặc bộ đồng phục lính cứu hỏa. Quỷ tha ma bắt! Hắn đã ở ngay trước mắt chúng em. Tất nhiên là thế rồi. Em nhớ hắn đã đeo găng tay lúc phân phát cà phê. Chúa ơi. Hắn đứng cách em có sáu chục phân. Và đeo mặt nạ phòng khí độc nữa. Hiển nhiên rồi.”
“Xin lỗi.” Một giọng nói vang lên sau họ.
Ông bác sĩ là một người Đông Ấn bé nhỏ với nước da xạm màu và những ngón tay bận rộn. Ông ta chớp mắt khi trông thấy khẩu súng trên hông phải của Sachs rồi thả lỏng lúc nhìn vào phù hiệu vàng trên hông trái. Chiếc xe đẩy của Rhyme chỉ nhận được một cái liếc nhanh, thờ ơ.
“Bà Sellitto?”
Rachel bước tới. “Là Parker. Chỉ là cô thôi. Tôi là bạn gái của Lon.”
“ Tôi là Shree Harandi. Bác sĩ trưởng khoa độc dược học ở đây.”
“ Anh ấy thế nào rồi? Thưa ông?”
“Vâng, anh ấy đã ổn định. Nhưng tình trạng của anh ấy không tốt, tôi phải nói vậy. Chất độc anh ấy nuốt phải là asen.”
Mặt Rachel đầy đau khổ. Sachs vòng một tay ôm người phụ nữ.
Asen là một nguyên tố, một á kim, điều đó có nghĩa là nó vừa có tính chất của kim loại lại vừa phi kim loại, như antimony và Bo vậy. Và tất nhiên là nó kịch độc. Rhyme nghĩ đến chuyện nghi phạm đã chuyển từ các loại độc chất có nguồn gốc thực vật sang hẳn một danh mục hoàn toàn khác – các loại nguyên tố có độc không nguy hiểm hơn nhưng chúng lại dễ dàng bắt gặp hơn nhiều vì chúng có những công dụng thương mại và có thể dễ dàng mua bán đến cả số lượng gây chết người; bạn không cần phải chiết xuất hay chưng cất chúng.
“Tôi thấy là có cả cảnh sát ở đây.” Giờ ông ta đã nhìn chiếc xe lăn với vẻ hiểu biết hơn. “À, tôi đã nghe nói về anh. Anh là Rhymes.”
“Rhyme.”
“Và tôi biết anh Sellitto cũng là một cảnh sát. Anh đã cho tôi thông tin về các chất độc đáng nghi phải không?”
“Đúng vậy,” Sachs nói.
“Cảm ơn anh vì điều đó nhưng chúng tôi đã nhanh chóng xác định đó là asen. Giờ, tôi phải nói cho các vị biết. Tình trạng của anh ấy rất nghiêm trọng. Liều lượng chất này rất cao. Các cơ quan nội tạng bị ảnh hưởng là phổi, thận, gan và da, và anh ấy đã bắt đầu có những biến đổi ở sắc tố da móng tay, được biết đến với tên gọi hiện tượng móng trắng dạng vân. Đó không phải là một dấu hiệu tốt.”
“Asen vô cơ?” Rhyme hỏi.
“Đúng vậy.”
Asen (III) là loại nguy hiểm nhất trong các loại chất độc. Rhyme khá quen thuộc với độc chất này. Anh đã từng làm hai vụ án mà hung thủ dùng nó làm vũ khí giết người – trong cả hai vụ đó người bạn đời (một người chồng, một người vợ) đều đã tiễn bạn đời của họ bằng chất này.
Ba trường hợp khác mà anh từng gặp nghi ngộ độc asen thì hóa ra đều là tai nạn. Chất độc này sản sinh tự nhiên trong mạch nước ngầm, đặc biệt là những nơi có hoạt động khai thác dầu trong đá – dùng cách làm nứt địa chất dưới áp lực cao để thu lấy dầu và khí ga.
Trên thực tế, trong suốt tiến trình lịch sử, nạn nhân bị hại bởi các vụ đầu độc bằng asen – như Francesco I de’ Medici, Đại công tước Tuscany – lại ít hơn nạn nhân vô tình trúng độc: Napoléon Bonaparte, có thể đã chết bởi những tờ giấy dán tường trong căn phòng ông bị đày tới ở ở St Helena; Simon Bolivar (nước ở Nam Mĩ); và viên đại sứ Hoa Kì tới Ý hồi những năm 50 (mảng sơn tróc trong căn hộ của bà). Rất nhiều khả năng sự điên rồ của Vua George cũng là do á kim này.
“Chúng tôi có thể gặp anh ấy không?” Sachs hỏi.
“Tôi e là không. Anh ấy đang bất tỉnh. Nhưng một y tá sẽ gọi các vị khi anh ấy tỉnh lại.”
Rhyme ghi nhận và thấy cảm kích thay cho Rachel vì cách dùng liên từ này.
Khi, chứ không phải là nếu.
Vị bác sĩ bắt tay. “Anh tin rằng thực sự có ai đó đã cố ý gây ra việc này ư?”
“Đúng vậy.”
“ Ôi trời.”
Điện thoại của ông reo vang và không nói thêm lời nào, ông quay đi để nghe máy.