"C
huyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy?” Rhyme quát.
Nhà tội phạm học và Mel Cooper đang ở sảnh trước của dinh thự, cửa mở ra. Ron Pulaski đứng cùng với họ. Cả ba nhìn ra phố, lúc này đang có đầy xe cảnh sát, hai xe tải ESU và hai xe cứu thương.
Đèn xanh, trắng, đỏ. Nhá liên hồi.
Bàn tay của Cooper và Pulaski đều đặt gần vũ khí bên hông của họ.
Thom đang ở trên gác, có lẽ là quan sát từ cửa sổ phòng ngủ.
Năm phút trước Rhyme nghe thấy những tiếng hụ còi khẩn cấp vang lên to hơn khi những chiếc xe cấp cứu lao dọc con phố bên ngoài. Anh tưởng họ sẽ đi tiếp vào Công viên Trung tâm mé Tây, nhưng họ lại không đi. Những chiếc xe phanh gấp ngay ở cửa ngôi nhà phía trên nhà anh. Tiếng còi đinh tai nhức óc vẫn tiếp tục ở cao độ một lát rồi tắt dần từng xe một.
Vừa nhìn ra ngoài Rhyme vừa nói, “Gọi vào trung tâm xem, Mel. Tìm hiểu xem.”
Đầu tiên anh đoán là sự việc này có gì đó liên quan đến mình – có lẽ nghi phạm đã tấn công trực diện vào dinh thự - nhưng rồi anh phát hiện ra mọi sự chú ý đều tập trung vào công viên và không có cảnh sát nào liên quan đến hoạt động kia tiếp cận nhà anh cả.
Cooper đang nói chuyện với ai đó ở Tổng đài rồi cúp máy.
“Một cuộc tấn công trong công viên. Nam da màu, ngoài ba mươi. Có lẽ định cưỡng dâm.”
“À.” Họ tiếp tục theo dõi thêm ba, bốn phút nữa. Rhyme nhìn kĩ công viên. Rất khó để trông thấy điều gì qua sương mù và cơn mưa tuyết. Một vụ cưỡng hiếp? Cơn khát dục tình còn bốc đồng và dữ dội hơn cả cơn khát tiền, anh biết, nhưng trong thời tiết như thế này ư?
Anh tưởng tượng mình là người làm hiện trường của vụ án đó và nghĩ rằng việc tìm bằng chứng trong cơn mưa băng giá này hẳn là một thách thức.
Nhưng điều đó lại làm anh nhớ đến Lon Sellitto, người thường đóng vai đại diện NYPD và liên hệ với anh về những nhiệm vụ tiềm năng. Viên thanh tra vẫn còn nằm trong phòng chăm sóc chuyên sâu nhất của khu chăm sóc đặc biệt, chưa có dấu hiệu tỉnh lại.
Rhyme gạt vụ cưỡng hiếp, hay âm mưu cưỡng hiếp ra khỏi đầu. Anh, Pulaski và Cooper quay vào phòng thí nghiệm trong phòng khách, nơi họ đang phân tích bằng chứng mà Thanh tra Cheyenne Edwards vừa đưa đến - những phát hiện tại hiện trường nhà Pam Willoughby.
Ở đó không có gì nhiều, mặc dù nghi phạm đã bỏ đi vội vã đến mức quên không lấy lại chiếc kim tiêm dưới da đã dùng để đâm Seth cùng cái lọ đựng chất độc mà hắn đã định dùng cho chàng trai trẻ. Chất độc tới từ cây baneberry trắng – còn gọi là mắt búp bê, vì quả của nó rất giống tròng mắt. Ghê rợn. Cooper giải thích rằng chất độc này hại đến tim; về cơ bản nó làm tim ngừng đập. Trong tất cả các loại độc dược mà nghi phạm từng sử dụng thì đây là loại nhân đạo nhất, giết người mà không gây ra những cơn đau đớn tấn công đường ruột hay hệ thống thận.
Rhyme để ý thấy Ron Pulaski đang nhìn xuống điện thoại của mình. Khuôn mặt cậu ta sáng lên nhờ ánh sáng lờ mờ màu xanh.
Kiểm tra tin nhắn hay là xem giờ? Rhyme tự hỏi. Ngày nay điện thoại di động được dùng thay đồng hồ ngày càng thường xuyên hơn.
Pulaski cúp máy và nói với Rhyme, “Tôi nên đi.”
Vậy là, xem giờ. Không phải tin nhắn.
Nhiệm vụ ngầm của Ron Pulaski ở nhà tang lễ sắp sửa bắt đầu: xem ai là người tới nhận tro cốt của Thợ đồng hồ và có lẽ, chỉ có lẽ thôi, biết được thêm chút gì về tên tội phạm bí ẩn ấy.
“Cậu đã sẵn sàng chưa, sẵn sàng làm Serpico, làm Gielgud chưa?”
“ Hắn ta có phải cảnh sát không? A, chờ đã, chẳng phải Serpico từng bị bắn vào mặt à?”
Sáng hôm đó Rhyme và Pulaski đã dành một khoảng thời gian để xây dựng câu chuyện nguỵ tạo nghe có vẻ đáng tin cậy dành cho giám đốc nhà tang lễ, hay bất kể ai tới nhận di hài của hắn ta.
Rhyme chưa bao giờ hoạt động ngầm nhưng anh biết luật: Ít là nhiều mà nhiều là ít. Có nghĩa là bạn phải nghiên cứu từng li từng tí vai diễn của mình, học thuộc mọi dữ kiện có thể, nhưng khi trình diễn trước mặt tên tội phạm, bạn chỉ được đưa ra phần tối thiểu. Thao thao bất tuyệt với kẻ xấu mọi chi tiết là chắc chắn bị lộ tẩy.
Vì thế anh và Pulaski phải nghĩ ra một tiểu sử cho Stan Walesa, một tiểu sử có thể tạo ra chút tin tưởng về mối liên hệ của cậu ta với Thợ đồng hồ. Rhyme đã để ý thấy cậu ta đi quanh căn phòng suốt ngày, vừa đi vừa nhẩm lại những sự kiện mà họ đã dựng nên. “Sinh ở Brooklyn, sở hữu một công ty xuất - nhập khẩu, bị điều tra về tội giao dịch nội gián, bị thẩm vấn vì có liên hệ với một vụ bịp bợm ngân hàng, đã li dị, hiểu biết về vũ khí, được một đồng phạm của Thợ đồng hồ thuê để vận chuyển vài container ra nước ngoài, không, tôi không thể nói tên người đó, không, tôi không biết có gì trong container. Một lần nữa: Sinh ra ở Brooklyn, có một công ty…”
Lúc này, trong khi Pulaski đang mặc áo khoác, Rhyme nói, “Nghe này, lính mới, đừng nghĩ về chuyện đây có thể là cơ hội cuối cùng để chúng ta lấp đầy chỗ trống trong tiểu sử Thợ đồng hồ quá cố.”
“Ừm, được rồi.”
“Và nếu cậu làm hỏng việc, chúng ta sẽ không bao giờ còn cơ hội nào nữa. Đừng nghĩ về việc đó. Bỏ nó ra khỏi đầu nhé.”
“Tôi…” Khuôn mặt cảnh sát tuần tra giãn ra. “Anh đang đùa thôi đấy à, Lincoln?”
Rhyme mỉm cười. “Cậu sẽ làm tốt thôi.”
Pulaski cười khúc khích rồi biến mất trong sảnh. Một lát sau đó sự ra đi của cậu ta được thông báo bằng một luồng gió thốc qua cánh cửa mở. Chốt cửa kêu cạch một tiếng; rồi im lặng.
Rhyme quay sang nhìn vào mấy hộp bằng chứng mà Thanh tra Edwards đã thu được trong căn hộ của Pam; sau vụ tấn công của nghi phạm vào Seth. Nhưng anh tập trung nhìn qua những cái túi.
Ồ, cái gì vậy?
Một điều kì diệu đã xảy ra.
Anh đang nhìn vào giá sách có chứa những cuốn sách về tội phạm học, một chồng báo chuyên ngành, một dụng cụ gradient tỉ trọng và… chai rượu mạch nha đơn cất của anh. Chai Glenmorangie đã được đặt trong tầm tay. Thom thường cất nó trên giá cao hơn – ngoài tầm với của Rhyme, như cái cách bạn vẫn giấu kẹo khỏi một đứa trẻ, điều này làm Rhyme tức tối khôn tả.
Nhưng rõ ràng là con gà mái mẹ đã bị phân tâm và cất nhầm.
Anh cưỡng lại cám dỗ trong lúc này và quay trở về với bằng chứng từ căn hộ của Pam và phòng kho trong tầng hầm, cùng với bộ quần áo của Seth đang trải ra trên bàn giám định. Trong nửa giờ vừa rồi anh và Cooper đã xem xét từng thứ một - tổng thể không nhiều lắm. Tất nhiên không có dấu vân tay, vài sợi vải, một hai sợi tóc, mặc dù có thể chúng là của Pam hoặc từ một người bạn của cô bé. Hay thậm chí là của Amelia Sachs, người thường xuyên ghé thăm. Có dấu vết, nhưng chủ yếu là những chất giống hệt như ở các hiện trường trước đó. Chỉ có một chất mới được tìm thấy: vài mẩu xơ giấy trên áo sơ mi của Seth, nơi nghi phạm đã tóm lấy cậu ta. Chúng rơi ra từ bản đồ kiến trúc hay sơ đồ cơ khí nào đó. Chắc hẳn chúng phải là từ Nghi can 11-5, vì Seth không dùng những biểu đồ như thế trong nghề viết quảng cáo thuê của mình. Và Pam cũng không có lí do gì để tiếp xúc với các loại biểu đồ ấy cả.
Mel Cooper đã điền một bảng vật chứng mới, trong đó bao gồm các dấu vết, chiếc xi lanh, ảnh chụp hiện trường, dấu bao giày.
Rhyme liếc vào những thông tin sơ sài ấy, không hài lòng chút nào. Không hề có chi tiết nào sâu sắc.
Anh đánh xe khỏi chỗ đó và hướng đến cái kệ, vừa nghĩ đến mùi oi khói lẫn vị của thứ rượu whisky ấy, đầm đậm chứ không phải quá khói.
Liếc thêm một lần nữa vào bếp, nơi Thom đang mải mê làm việc, và về phía Cooper, người đang cất bằng chứng từ hiện trường. Rhyme dễ dàng nhấc cái chai khỏi giá và đặt nó giữa hai chân mình. Anh lúng túng với chiếc li pha lê, trong lúc nhấc nó lên - thật cẩn thận – và đặt nó lên giá trong tầm rót.
Rồi anh quay lại với cái chai và bằng những động tác tỉ mỉ, anh nhẹ nhàng đẩy nút bấc và rót rượu vào li.
Một ngón, hai ngón, thôi được rồi, ba ngón.
Hôm nay đã là một ngày khó khăn.
Chai rượu hạ cánh an toàn về vị trí cũ và anh xoay ngược cái xe đẩy lại, trở về trung tâm phòng thí nghiệm.
“Tôi chẳng thấy gì cả,” Cooper nói, lưng quay lại với Rhyme.
“Đằng nào cũng không có ai tin nhân chứng đâu, Mel.” Anh nhẹ nhàng tiến tới bảng vật chứng và dừng lại.
Không làm đổ ra một giọt nào.