"E
m biết anh hoài nghi thế nào về các động cơ rồi đấy.”
Sachs không nói gì nhưng một nụ cười nở rộng cho thấy suy nghĩ của cô.
Điều khiển xe lăn về phía bảng vật chứng, Rhyme nói tiếp, “Nhưng cũng có những lúc đặt câu hỏi về chúng là hợp lí – đặc biệt là khi chúng ta đã xây dựng được một nền tảng vật chứng chắc chắn. Như hiện nay. Khả năng có một quả bom – nhớ là khả năng thôi nhé – có thể tách vụ này ra khỏi thế giới tội phạm điên loạn. Có thể có một động cơ hợp tình hợp lí nào đó ở đây. Nghi phạm của chúng ta không nhất thiết là đang thỏa mãn cái khao khát sâu thẳm là hoàn thiện việc của Kẻ tầm xương đâu. Anh nghĩ có thể hắn còn có toan tính gì hơn thế trong đầu. Đúng, đúng, việc này thú vị thật,” anh hào hứng tiếp. “Anh muốn xem các nạn nhân lần nữa.”
Cả đội đọc kĩ lại các biểu đồ. Rhyme nói, “Chúng ta có thể đưa Eddie Beaufort ra khỏi công thức. Anh ta bị giết vì ở nhầm chỗ nhầm thời điểm thôi. Lon và Seth và tôi bị tấn công để cản bước chúng ta. Có bốn cuộc tấn công có chủ đích, là một phần trong kế hoạch của hắn: Chúng ta đã phá hai lần – Harriet Stanton ở bệnh viện và Braden Alexander ở Chung cư Belvedere. Và hai vụ đã thành công. Chloe và Samantha. Tại sao lại là bốn người đó?” Rhyme thì thầm. “Điều gì ở họ nổi bật hơn?”
Sachs nói, “Em không biết, Rhyme. Dường như họ hoàn toàn là ngẫu nhiên… những nạn nhân ngẫu nhiên.”
Rhyme nhìn lên tấm bảng trước mặt anh. “Đúng, bản thân nạn nhân là ngẫu nhiên. Nhưng lỡ…”
Pulaski vuột miệng, “Địa điểm thì sao? Có phải hắn đang giả vờ điên để lôi kéo sự chú ý khỏi thực tế rằng có gì đó ở các hiện trường mà hắn muốn thổi tung?”
“Chính xác, lính mới ạ!” Rhyme đọc lướt các tấm bảng. “Địa điểm, địa điểm, địa điểm.”
Cooper nói, “Nhưng thổi tung cái gì? Và như thế nào?”
Rhyme xem lại những ảnh chụp hiện trường lần nữa. Rồi: “Sachs!”
Cô nhướng một bên lông mày.
“Khi chúng ta không chắc axít hipoclorơ từ đâu ra chúng ta đã cử cảnh sát tới các hiện trường, nhớ không? Để xem có hệ thống dẫn clorin nào vào đó không.”
“Đúng vậy. Cửa hàng ở SoHo và nhà hàng. Họ không tìm được gì cả.”
“Đúng, đúng, đúng, nhưng không phải tôi đang nghĩ đến axít.” Rhyme đẩy xe lại gần màn hình, xem xét các hình ảnh. “Nhìn vào những bức ảnh em chụp mà xem, Sachs. Đèn rọi và ắc-quy. Có phải em đã dựng chúng không?”
“Không, những cảnh sát đầu tiên chứ.” Cô cau mày. “Em đã tưởng là họ làm. Chúng đã ở đó lúc em đến. Cả hai hiện trường.”
“Và cảnh sát đi kiểm tra đường hầm tìm clorin sau đó đã bảo là anh ta đang đứng cạnh đèn rọi. Chúng vẫn còn ở đó. Tại sao?” Anh cau mày và nói với Sachs, “Hỏi xem ai đã dựng chúng đi.”
Sachs chộp lấy điện thoại và gọi cho đội Hiện trường ở Queens. “Joey, Amelia đây. Khi người của anh đến hiện trường Nghi can Mười một-năm, các anh có mang đèn halogen vào bất kì chỗ nào không?... Không.” Cô gật đầu. “Cảm ơn.” Cúp máy.
“Họ không hề dựng chúng, Rhyme. Chúng không phải đèn của chúng ta.” Sau đó cô gọi đến một người bạn ở sở cứu hỏa và hỏi câu tương tự. Sau cuộc nói chuyện ngắn cô cúp máy và báo cáo. “Ừm. Chúng cũng không phải của bên cứu hỏa. Và cảnh sát tuần tra cũng không mang sẵn đèn trên xe của họ. Chỉ có đội Khẩn cấp mang và phải một lúc sau họ mới đến.”
“Trời ạ,” Rhyme quát, “tôi cá là dưới đường hầm của Belvedere cũng có đèn.”
Sachs: “Đó là nơi chứa bom, đúng không? Mấy cái ắc-quy.”
Rhyme nhìn qua ảnh. “Trông chúng giống loại mười hai vôn. Em có thể chạy đèn halogen bằng loại ắc-quy nhỏ hơn nhiều. Tôi chắc chắn phần còn lại trong cái thùng chứa đầy thuốc súng. Quá thông minh. Không ai thắc mắc về đèn rọi và ắc-quy nằm trong một hiện trường tội ác cả. Bất kì một loại bao gói khả nghi nào khác sẽ bị báo cáo và đội phá bom sẽ kiểm tra ngay.”
“Nhưng mục tiêu là cái gì?” Cooper hỏi.
Một thoáng im lặng ngắn bị Amelia Sachs phá vỡ. “Chúa ơi.”
“ Sao, Sachs?”
“IFON.” Cô lôi một thứ giống danh thiếp ra khỏi ví. Và đi thật nhanh đến chỗ ảnh chụp hiện trường. “Chết tiệt, em bỏ sót rồi, Rhyme. Hoàn toàn bỏ sót nó.”
“Nói tiếp đi.” Cô chỉ vào màn hình. “Những cái hộp màu vàng có in chữ IFON bên ngoài này? Chúng là dây cáp mạng Internet do International Fiber Optic Networks (Mạng lưới cáp quang quốc tế) sở hữu.” Cô giơ cái danh thiếp lên. “Và tòa nhà nằm ngay trên hiện trường vụ Samantha Levine chính là trụ sở của IFON. Cô ta làm việc cho họ. Em đã thẩm vấn vị CEO ngay sau khi cô ta chết.” Sachs lôi lên những bức ảnh hiện trường vụ Chloe Moore. “Đây. Lại là mấy cái hộp ấy.”
Còn có một chiếc hộp khác nằm trong đường hầm bên dưới bãi đỗ xe của Chung cư Belvedere.
Sachs nói, “Trong bệnh viện, ở Marble Hill, nơi Harriet Stanton bị tấn công, em đã không xuống lòng đất xem đường hầm nào cả. Nhưng em cá là có bộ định tuyến IFON hay đại loại thế ở đâu đó.”
Pulaski nói, “Ai đó muốn thổi tung mấy cái hộp.” Cuối cùng khuôn mặt cậu ta cũng tỏ ra nham hiểm. “Này – nghĩ mà xem – làm mất mạng Internet? Những lời đồn về chuyện các công ty cung cấp cáp truyền thống đang phá hoại hệ thống cáp quang mới ấy? Tôi cá chính là nó.”
Sachs nói, “Kẻ tầm da của chúng ta có vẻ giống như người thừa kế Kẻ tầm xương, nhưng rốt cuộc là sao? Nó chỉ là màn ngụy trang. Hắn được thuê gài bom dưới lòng đất để loại hết bộ định tuyến của Cáp quang Quốc tế.”
Pulaski hỏi, “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng bị nổ?”
“Có thể toàn bộ internet ở Manhattan sẽ bị ngắt,” Cooper nói.
“Ngân hàng,” Rhyme lẩm bẩm. “Và bệnh viện, cảnh sát, an ninh quốc gia, kiểm soát không lưu. Gọi Dellray và bảo ông ta báo động cho An ninh Nội địa đi. Tôi đoán cả trăm mạng người lẫn hàng tỉ dollar có thể bị mất. Gọi anh chàng thợ máy tính của chúng ta, Rodney Szarnek ngay.”