H
arriet Stanton đang quay về cùng chồng bà, Matthew, từ Trung tâm y tế Thượng Manhattan ở Marble Hill.
Họ đang ngồi trong chiếc xe taxi, số tiền xe bấy giờ đã là mười bảy dollar.
“Nhìn mà xem,” Matthew bực dọc nhìn đồng hồ. “Bà có tin được không? Đến lúc chúng ta về tới khách sạn thì nó phải nhảy đến ba mươi mất. Đi tàu điện ngầm rẻ hơn nhiều.” Matthew lúc nào cũng hơi ki bo. Giờ đây, sau cuộc chạm trán chớp nhoáng với tử thần - hay với hệ thống chăm sóc sức khỏe của thành phố New York – tâm trạng của ông vẫn không cải thiện.
Trong trạng thái gì cũng ừ của mình, bà Harriet trả lời rằng khi nghĩ đến khu vực họ đang đi qua đây – khu Bronx và Harlem – chẳng lẽ tiêu chút tiền không tốt hơn sao? “Và nhìn trời mà xem.”
Nơi họ sống, ở vùng hạ Illinois, thời tiết có thể vừa lạnh vừa nhớp nháp. Mặc dù vậy nó có vẻ không lạnh bẩn và nhớp nháp. Từ “bị vấy bẩn” nổi lên trong đầu bà.
Matthew nắm tay bà, đó là một cách nói, ừ, tôi cho là bà nói đúng.
Hóa đơn viện phí của ông không đến nỗi tồi tệ lắm, dù không dễ đọc. Đúng là ông đã bị đau tim – hay dùng đúng từ chuyên môn là nhồi máu cơ tim – nhưng không cần phải phẫu thuật. Thuốc thang và các bài tập chậm rãi nhưng đều đặn tăng dần sẽ chữa được bệnh, bác sĩ đã dặn họ như vậy. Tất nhiên là aspirin nữa. Lúc nào chả là aspirin.
Bà gọi cho con trai họ, Josh, ở khách sạn và bảo cậu ta tới lấy thuốc cho Matthew. Bác sĩ đã gửi chúng tới một cửa hàng thuốc gần đó. Matthew ngồi im lìm trên ghế taxi và nhìn chằm chằm vào khung cảnh. Bà đoán ông thích thú ngắm nhìn con người, từ cái cách mắt ông nhảy nhót từ đám khách bộ hành này sang đám khác.
Chiếc xe thả họ trước cửa khách sạn. Harriet đoán nơi này được xây dựng từ những năm 30, và rõ ràng chưa được cải tạo gì trong nhiều năm rồi. Màu sơn là màu vàng nhũ, vàng và xám. Những bức tường bong tróc và rèm cửa giòn gãy do bị giặt quá nhiều lần, hoa văn hình học xấu hoắc. Toàn bộ nơi này nhắc bà nhớ tới Nhà trọ Moose ở quê nhà.
Cách bài trí cùng với mùi Lysol và mùi hành không bao giờ tan khiến bà bực dọc. Nhưng có lẽ đó chỉ là sự thất vọng về vụ đau tim của chồng bà, làm gián đoạn kế hoạch của họ. Họ đi thang máy lên tầng mười và bước ra, đi bộ về phòng.
Harriet cảm thấy mình nên giúp chồng vào giường, hay nếu ông chọn thức thì nên giúp ông xỏ dép và thay sang bộ quần áo nào đó dễ chịu, rồi sau đó gọi thêm đồ ăn. Nhưng ông phẩy tay ngăn bà – dù cái phẩy tay đi kèm nụ cười nhẹ - và ngồi xuống cái bàn ọp ẹp để lên mạng. “Thấy chưa. Tôi đã bảo mà. Mười lăm dollar một ngày để lên mạng. Ở Red Roof người ta miễn phí đấy. Hay Best Western cũng vậy. Josh đâu?”
“Đang đi lấy thuốc cho ông.”
“ Có thể nó sẽ bị lạc đấy.”
Harriet cho một chồng quần áo bẩn vào túi giặt khô của căn phòng, rồi mang nó xuống phòng giặt là khách tự phục vụ ở dưới tầng hầm. Đây là khoản duy nhất bà sẽ không trả tiền cho khách sạn, dịch vụ giúp việc. Thật là ngớ ngẩn.
Bà dừng lại để ngắm mình trong gương, để ý thấy chiếc chân váy màu vàng nâu đã không cần phải là thêm nữa, và áo len màu nâu đang ôm lấy thân hình tròn trịa của bà gần như không còn dính sợi lông hay tóc nào. Gần như chứ không phải hoàn toàn. Bà nhặt ra vài sợi và thả chúng xuống sàn; ở nhà họ có ba chú chó chăn cừu giống Đức. Bà đã gom những sợi tóc rụng của chính mình, căng ra và gắn chặt thành búi tóc.
Bà cũng thấy là trong lúc vội vã vào viện bà đã cài ngược phần mặt của sợi dây chuyền bạc, giờ bà sửa lại nó, mặc dù hình mặt dây rất trừu tượng nên chẳng có ai để ý thấy lỗi này.
Rồi bà nhăn mặt; đừng có tự đắc như thế.
Bỏ mặc Matthew, bà bước ra hành lang cùng túi đồ giặt và bấm thang máy xuống sảnh. Dưới đó rất đông khách. Bà chờ đến lượt ở bàn lễ tân để đổi tiền lẻ. Một đám khách du lịch Nhật Bản đang đứng túm tụm quanh những chiếc va li của họ, trông như các nhà thám hiểm đang bảo vệ đàn bà của mình. Một cặp đôi có vẻ đang đi nghỉ trăng mật đứng gần đó, người này nhìn người kia trìu mến. Hai gã đàn ông – bà có thể thấy họ là gay – nhiệt tình trò chuyện về vài kế hoạch cho đêm nay. Các nhạc sĩ trẻ, trong chiếc áo khoác da, gác chân lên dụng cụ chơi nhạc xước xát của họ. Một cặp béo phì đang gập người bên bản đồ. Người chồng mặc quần soóc. Trong thời tiết này. Lại còn với cặp chân kia!
New York. Một chốn kì lạ.
Harriet bỗng có cảm giác ai đó đang theo dõi mình. Bà nhanh chóng nhìn lên. Nhưng không trông thấy ai. Tuy nhiên bà vẫn rời đi với cảm giác bất an.
Chà, sau vụ bị bắt hụt ở bệnh viện, có bị hoang tưởng một chút cũng là lẽ dĩ nhiên.
“Thưa bà?” bà nghe tiếng gọi.
“Ồ, xin lỗi.” Bà quay lại với nhân viên lễ tân và đổi mười dollar.
Bà bấm thang máy xuống hầm và đi theo biển chỉ đường xuôi xuống hai hành lang nữa tới phòng giặt, một nơi tối mờ, lấm chấm bột giặt bị đổ ra và có mùi nước xả của máy sấy và mùi xơ vải nóng. Giống như trên các hành lang, phòng này cũng không có ai.
Bà nghe tiếng xịch của thang máy đi lên. Một lát sau là tiếng khoang thang máy trở lại với tầng này. Nếu nó vẫn là cái cũ thì chắc nó chỉ mới đi lên đến tầng một.
Hai dollar cho một cốc bột giặt dùng một lần? Đáng lẽ bà phải bảo Josh mua một bình Tide ở cửa hàng dược phẩm. Rồi bà tự nhắc nhở: Đừng có giống Matthew. Đừng lo ngại về những thứ vụn vặt.
Phải chăng những bước chân kia đang tới từ hướng thang máy?
Bà liếc về phía cửa, hành lang tối tăm. Tim đập nhanh hơn một chút, lòng bàn tay đang vã mồ hôi.
Không có gì.
Bà bỏ quần áo vào cái máy ít bẩn nhất và thảy vào đó sáu đồng hai lăm xu.
Lại là tiếng bước chân, lần này to hơn.
Bà quay lại, nhìn đăm đăm vào chàng trai trẻ trong chiếc áo khoác da màu nâu đỏ, đầu đội mũ NY Mets xanh lục. Hắn đang đeo ba lô và một chiếc túi vải của thợ.
Một giây im lặng.
Rồi bà nở nụ cười. “Billy.”
“Dì Harriet.” Billy Haven nhìn quanh để đảm bảo là họ ở riêng rồi bước hẳn vào phòng. Hắn thả hai chiếc túi xuống.
Bà giơ hai tay lên, ngửa lòng bàn tay. Như đang kêu gọi một đứa trẻ.
Billy do dự rồi bước tới chỗ bà và để mình bị kéo vào vòng tay bà, hai cánh tay ôm lấy hắn thật chặt. Họ cao gần như bằng nhau – chính bà cũng chỉ chưa tới mét tám – và Harriet dễ dàng đưa mặt bà tới chỗ hắn, hôn lên miệng hắn thật sâu.
Bà cảm nhận được hắn kháng cự trong một giây rồi đầu hàng và hôn lại bà, dùng môi mình bám chặt lấy môi bà, nếm vị của bà. Không muốn nhưng lại không thể dừng.
Chuyện đã luôn như vậy với hắn: đầu tiên là kháng cự, rồi đầu hàng… rồi ngày càng đòi hỏi khi hắn đẩy bà nằm ngửa xuống và vật lộn với đám quần áo.
Luôn luôn là như thế - kể từ lần đầu tiên từ hơn một thập kỉ trước, khi bà lôi thằng bé vào phòng làm việc phía trên gara, phòng Trúc đào, cho những cuộc hẹn buổi chiều của họ, trong lúc Matthew còn bận làm việc thì có Chúa mới biết – như dì cháu họ thường nói đùa.