C
on người ta có thể nhìn nhận cái chết theo hai hướng.
Theo quy tắc của ngành khoa học pháp y, một điều tra viên nhìn vào cái chết một cách khách quan, coi nó chỉ là một sự kiện khiến họ có thêm nhiều nhiệm vụ. Các cảnh sát pháp y giỏi nhìn sự kiện ấy như thể bằng lăng kính lịch sử; những người giỏi nhất thì coi cái chết như một sự hư cấu, và nạn nhân chỉ là một người chưa từng tồn tại.
Sự khách quan là một công cụ cần thiết trong việc điều tra hiện trường tội ác, cũng giống như găng tay latex hay các nguồn sáng thay thế.
Trong lúc ngồi trên chiếc xe lăn màu đỏ và xám hiệu Merits trước cửa sổ dinh thự của mình ở mé Tây Công viên Trung tâm, Lincoln Rhyme vô tình nghĩ đến một cái chết có cùng cách thức gây án dạo gần đây. Tuần trước một người đàn ông vừa bị giết trong thành phố, một vụ cướp giật chuyển hướng xấu. Ngay sau khi rời văn phòng ở Sở Bảo vệ Môi trường vào khoảng giữa buổi tối, anh ta đã bị lôi vào một công trường xây dựng bỏ hoang bên kia phố. Thay vì giao nộp ví tiền, anh ta lại chọn chiến đấu và vì không đấu lại thủ phạm, anh ta đã bị đâm chết.
Hồ sơ đang nằm ngay trước mặt Rhyme, vụ án lúc này có vẻ đơn giản, với chút ít bằng chứng điển hình trong một vụ án mạng như thế này: vũ khí rẻ tiền, một con dao nhà bếp có răng cưa, đôi chỗ dính dấu vân tay không nằm trong IAFIS1 hay bất kì nơi nào khác, dấu giày không có gì đặc biệt trên đám bùn ở mặt đất công trường đêm đó, và không có dấu vết hay rác hay đầu lọc thuốc nào. Chính vì thế mà đám bằng chứng đều vô dụng. Tất cả đều ám chỉ rằng đây chỉ là một tội ác ngẫu nhiên; không có động lực nào cho những kẻ thủ ác tương tự. Các cảnh sát đã phỏng vấn nhân viên của nạn nhân tại cơ quan và nói chuyện với bạn bè lẫn người thân của anh ta. Không có liên hệ gì với ma túy, không có chuyện cờ bạc nợ nần, cũng không có chuyện ghen tuông tình ái.
1 IAFIS là viết tắt của Integrated Automated Fingerprint Identification System, tạm dịch là ‘Hệ thống Nhận dạng Vân tay Tự động Tích hợp’, trực thuộc Cục Điều tra Liên bang Mĩ (FBI).
Với số lượng bằng chứng ít ỏi này, Rhyme biết chắc vụ án sẽ được phá theo cách: Kẻ nào đó sẽ hớ hênh chuyện mình luộc được một cái ví gần Tòa thị chính. Rồi những kẻ nghe được câu chuyện kia sẽ bị tóm do ma túy hay bạo lực gia đình hoặc tội lặt vặt tương tự, và thỏa thuận xin giảm án bằng cách khai ra tên bốc phét nọ.
Tội ác này, một vụ cướp chuyển biến xấu, với Lincoln Rhyme, là cái chết được quan sát từ xa. Thuộc về lịch sử. Thuộc về hư cấu.
Góc nhìn thứ nhất.
Cách thứ hai để nhìn nhận cái chết là xuất phát từ trái tim: khi một người có mối liên hệ thực sự với bạn đã không còn tồn tại trên đời nữa. Và cái chết còn lại trong tâm trí Rhyme vào một ngày giông gió, ảm đạm như hôm nay đã tác động sâu sắc đến anh theo cái cách mà vụ cướp của giết người kia không thể làm được.
Rhyme không gần gũi với nhiều người. Điều đó không phải do tình trạng sức khỏe của anh – anh là một người bị liệt tứ chi, gần như tê liệt từ cổ trở xuống. Không, từ xưa đến nay anh không phải là người quảng giao. Anh là con người của khoa học. Một người sống lí trí.
Ồ, anh cũng có vài người bạn thân, vài họ hàng, người yêu. Vợ anh, giờ đã là vợ cũ.
Thom, trợ tá của anh.
Amelia Sachs, tất nhiên rồi.
Nhưng người thứ hai mới chết mấy ngày trước, theo một nghĩa nào đó thì hắn còn gần gũi anh với hơn bất kì ai kể trên, là bởi: Hắn đã thách thức Rhyme hơn bất kì ai, buộc anh phải suy nghĩ vượt qua những ranh giới mà tâm trí tò mò của anh đã đưa anh tới, buộc anh phải dự đoán và vạch chiến lược và đặt câu hỏi. Hắn còn buộc anh phải chiến đấu vì mạng sống của mình nữa; người đàn ông này suýt chút nữa đã giết được anh.
Thợ đồng hồ là tên tội phạm thú vị nhất mà Rhyme từng chạm trán. Một kẻ thay đổi danh tính xoành xoạch, Richard Logan lúc đầu là một sát thủ chuyên nghiệp, mặc dù hắn đã dàn dựng vô số tội ác theo đủ kiểu, từ tấn công khủng bố cho đến trộm cắp. Hắn làm việc cho bất kì ai trả cho hắn một khoản phí hậu hĩnh – tất nhiên, miễn là công việc ấy đủ thách thức với hắn. Đó cũng chính là tiêu chí Rhyme dùng để quyết định có nhận lời làm nhà tư vấn về khoa học pháp y cho một vụ án hay không.
Thợ đồng hồ cũng là một trong số ít những kẻ nhanh trí hơn anh. Mặc dù cuối cùng Rhyme đã đặt được bẫy để tống Logan vào tù, anh vẫn còn nhức nhối vì thất bại tới mấy lần trong việc ngăn chặn âm mưu của hắn. Và kể cả khi đã thua, đôi khi Thợ đồng hồ vẫn gây ra những thiệt hại thảm khốc. Như trong vụ Rhyme làm thất bại âm mưu giết hại một điều tra viên người Mexico đang làm việc với các cartel1 ma túy, Logan vẫn kịp khơi mào một vụ rắc rối mang tầm quốc tế (đến cuối cùng người ta đã phải đóng hồ sơ và giả vờ như nỗ lực tấn công ấy chưa từng xảy ra).
1 Tổ chức độc quyền gồm một số công ty hoặc xí nghiệp kí hiệp nghị với nhau về thị trường tiêu thụ, giá cả, nhân công... để chi phối thị trường.
Nhưng giờ Thợ đồng hồ đã ra đi.
Hắn đã chết trong tù – không phải bị bạn tù giết hay tự sát như Rhyme đã nghi ngờ khi mới nghe tin. Không, nguyên nhân tử vong là một lần ngưng tuần hoàn tim phổi trên diện rộng mặc dù nhẹ. Ông bác sĩ mà Rhyme nói chuyện ngày hôm qua đã báo cáo lại rằng kể cả nếu họ có cứu được Logan thì hắn cũng phải chịu tổn thương não vĩnh viễn và nghiêm trọng. Tuy các bác sĩ không dùng những từ như “hắn chết là may,” Rhyme vẫn nhận ra điều đó trong giọng điệu của ông ta.
Một cơn gió mạnh bất thường vào tháng Mười một làm rung các cửa sổ trong dinh thự của Rhyme. Anh đang ngồi ở phòng khách – nơi khiến anh cảm thấy thoải mái hơn mọi nơi khác trên đời. Lúc đầu nó vốn là phòng tiếp khách thời Victoria, nhưng giờ nó đã là một phòng thí nghiệm pháp y được trang bị đầy đủ, với những chiếc bàn không một hạt bụi để quan sát bằng chứng, máy tính và các màn hình độ phân giải cao, nhiều giá để dụng cụ, những thiết bị phức tạp như máy hút mùi và hạt, phòng dựng hình dấu vân tay ẩn, kính hiển vi – cả loại mắt thường và soi kích cỡ điện tử - và món đặc sắc nhất là một chiếc máy quang phổ khí, cái được mệnh danh là chú ngựa thồ của các phòng thí nghiệm pháp y.
Bất kì một sở cảnh sát nhỏ hay cả cỡ vừa nào cũng sẽ ghen tị với các thiết bị trị giá hàng triệu dollar ở đây. Tất cả đều từ tiền túi của Rhyme. Sau vụ tai nạn tại hiện trường khiến anh trở thành người tàn tật, anh được bồi thường số tiền khá lớn; khoản phí tư vấn mà NYPD1 và các cơ quan hành pháp khác phải trả khi thuê anh cũng vậy. (Những lời đề nghị đột xuất từ các nguồn khác có thể mang lại thêm thu nhập, chẳng hạn như lời mời làm chương trình truyền hình dựa trên những vụ án anh đã phá. Người đàn ông trên ghế là một tiêu đề họ gợi ý. Hay Rhyme và Lí lẽ. Thom đã dịch câu trả lời của ông chủ anh ta cho những đề nghị đó – “Mấy người kia bị mất trí rồi à?” – thành, “Ông Rhyme nhờ tôi chuyển lời cảm ơn vì các vị đã quan tâm. Nhưng ông ấy sợ rằng tại thời điểm này ông ấy đã có nhiều cam kết khác nên không thể thực hiện được một dự án như vậy.”)
1 NYPD là viết tắt của New York Police Department, Sở Cảnh sát New York.
Lúc này Rhyme xoay chiếc ghế lại và nhìn vào chiếc đồng hồ bỏ túi nhỏ nhắn và xinh đẹp đang nằm trong hộp trên bệ lò sưởi. Một chiếc Breguet. Vô tình đó lại là một món quà của chính Thợ đồng hồ.
Nỗi tiếc thương người đã khuất của anh rất phức tạp và phản ánh hai góc nhìn về cái chết mà anh vừa nghĩ tới. Chắc chắn anh có những lí do mang tính phân tích về mặt tội phạm học để buồn bã về tổn thất này. Từ giờ anh sẽ không còn cơ hội thăm dò tâm trí của người đàn ông này cho tới khi thoả mãn được nữa. Đúng như biệt danh của mình, Logan bị ám ảnh với thời gian và những vật chỉ thời gian – hắn thực sự làm ra những chiếc đồng hồ đeo tay và để bàn với sự chính xác đến từng li từng tí – và đó cũng là cách hắn lên kế hoạch cho những tội ác của mình. Kể từ lần đầu tiên cuộc đời hai người giao nhau, Rhyme đã luôn thích thú với cách Logan suy nghĩ. Thậm chí anh còn ước gì hắn cho phép anh vào thăm tù để họ có thể nói chuyện về những tội ác như thế cờ do hắn bày ra.
Cái chết của Logan cũng để lại những mối lo khác trong thực tế. Công tố viên đã đề nghị với Logan một thỏa thuận, một bản án khoan hồng để đổi lấy tên tuổi một vài kẻ đã thuê hắn và những người hắn làm việc cùng; rõ ràng hắn có hẳn một mạng lưới các đồng nghiệp tội phạm rộng khắp mà cảnh sát rất muốn biết danh tính. Người ta cũng nghe được những tin đồn về các âm mưu mà Logan đã vạch sẵn trước khi đi tù.
Nhưng Logan đã không chấp nhận thỏa thuận của Công tố viên quận. Đáng bực hơn, hắn nhận tội, cũng đồng nghĩa với việc từ chối không cho Rhyme một cơ hội khác để biết thêm về con người thật của hắn, hay xác nhận danh tính các thành viên trong gia đình và bạn bè hắn. Rhyme thậm chí còn định dùng công nghệ nhận diện khuôn mặt và các đặc vụ ngầm để xác định những người tham dự phiên tòa xử tên tội phạm.
Mặc dù vậy, cuối cùng thì Rhyme cũng hiểu được rằng anh khó chấp nhận cái chết của hắn chính là vì mối liên hệ giữa họ. Những thứ đối nghịch với chính mình giúp chúng ta định nghĩa bản thân và ngày càng hoàn thiện hơn. Và thế là khi Thợ đồng hồ chết, Lincoln Rhyme cũng chết đi một ít.
Anh nhìn vào hai người khác trong phòng. Một người là anh chàng trẻ tuổi trong đội của Rhyme, cảnh sát tuần tra của NYPD Ron Pulaski, cậu ta là người thu về chứng cứ vụ cướp của giết người ở Tòa thị chính.
Người còn lại là người chăm sóc Rhyme, Thom Reston. Anh ta đẹp trai, mảnh khảnh và ăn mặc không chê vào đâu được như mọi khi. Hôm nay: quần nâu sậm với nếp li phẳng như lưỡi dao, một chiếc áo sơ mi màu vàng nhạt và chiếc cà vạt in hình động vật màu xanh và nâu; có vẻ như trên chiếc cà vạt ấy có hình một hoặc hai khuôn mặt khỉ. Rất khó nói. Bản thân Rhyme rất ít chú ý tới quần áo. Chiếc quần nỉ màu đen và áo len dài tay vừa tiện dụng lại giữ ấm tốt. Đó là tất cả những gì anh quan tâm.
“Tôi muốn gửi hoa,” Rhyme thông báo.
“Hoa ư?” Thom hỏi.
“Ừ. Hoa. Gửi đi. Tôi đoán mọi người vẫn làm vậy. Những vòng hoa tang ghi Thành kính phân ưu, An giấc nghìn thu ấy, mặc dù việc ấy thì có ích lợi gì? Người chết thì còn làm gì khác được nữa chứ? Lời nhắn ấy thích hợp hơn là Chúc may mắn nhỉ, cậu có nghĩ vậy không?”
“Gửi hoa cho… Chờ đã. Anh đang nói về Richard Logan đấy à?”
“Tất nhiên rồi. Gần đây còn có ai chết mà đáng để gửi vòng hoa nữa à?”
Pulaski nói, “Ừm, Lincoln. “Đáng gửi hoa.” Tôi chưa từng tưởng tượng có ngày anh lại dùng cụm từ ấy.”
“Hoa,” Rhyme sốt ruột nhắc lại. “Sao còn chưa ghi lại nhỉ?”
“ Thế sao anh lại có tâm trạng tồi tệ như vậy?” Thom hỏi.
“Cặp vợ chồng già” là cụm từ có thể dùng để mô tả mối quan hệ của người chăm sóc chuyên nghiệp và bệnh nhân.
“Tôi có tâm trạng gì đâu. Tôi chỉ đơn giản là muốn gửi hoa cho một nhà tang lễ mà không ai chịu làm cả. Chúng ta có thể lấy tên nhà tang lễ từ chỗ bệnh viện đã tiến hành khám nghiệm tử thi. Họ sẽ phải chuyển cái xác tới một nhà tang lễ. Bệnh viện đâu có ướp xác hay hỏa táng.”
Pulaski nói, “Anh biết đấy, Lincoln. Có một cách để nhìn nhận chuyện này: Rốt cuộc đã có chút công lí. Anh có thể nói rằng, rốt cuộc Thợ đồng hồ đã nhận bản án tử.”
Là một chàng trai tóc vàng, quyết tâm và nhiệt tình, Pulaski có đủ tố chất để trở thành một cảnh sát điều tra hiện trường xuất sắc và Rhyme đã nhận lấy vai trò là người dẫn dắt cậu ta. Và việc ấy không chỉ bao gồm những chỉ dẫn trong ngành khoa học tội phạm mà còn những cách vận dụng trí não của mình nữa. Về mặt này thì cậu ta dường như đang không thực hành. “Vậy thì một tai biến trụy tim ngẫu nhiên được coi là công lí như thế nào hả, lính mới? Nếu công tố viên ở bang New York không tìm kiếm án tử cho hắn, vậy thì cậu sẽ nói rằng một cái chết trước dự định là làm suy yếu công lí. Chứ không phải tăng cường sức mạnh cho nó.”
“Tôi…” chàng trai trẻ lắp bắp, đỏ mặt tía tai.
“Nào, lính mới, chúng ta hãy bỏ qua những lời bình phẩm lệch lạc đó đi. Hoa thì sao. Tìm hiểu xem khi nào cái xác sẽ được bệnh viện Westchester Memorial trả lại và nó sắp đi đâu. Tôi muốn gửi hoa tới đó NGAY, dù có hay không có đám tang. Kèm một tấm thiệp đề tên tôi.”
“ Ghi gì mới được?”
“Không ghi gì ngoài tên tôi.”
“Hoa à?” Giọng Amelia Sachs vọng lại từ trong sảnh dẫn vào nhà bếp và cửa sau của dinh thự. Cô đang bước vào phòng khách, gật đầu chào mọi người.
“Lincoln định gửi hoa tới nhà tang lễ. Cho Richard Logan. Ý tôi là, tôi sắp gửi.”
Sachs treo chiếc áo khoác đen trên mắc áo trong sảnh. Cô đang mặc chiếc quần bò bó sát màu đen, áo len vàng và áo khoác len thể thao màu đen. Thứ duy nhất gợi ý chức vụ thanh tra cảnh sát của cô là khẩu Glock đang đeo cao trên hông, mặc dù lập luận từ vũ khí tới chức vụ trong ngành hành pháp cùng lắm cũng chỉ là suy đoán. Khi nhìn vào cô gái tóc đỏ cao ráo, mảnh mai – với mái tóc thẳng tắp dày dặn – chắc hẳn bạn sẽ đoán cô là một người mẫu thời trang. Đó cũng là công việc cô đã làm ngay trước khi gia nhập NYPD.
Sachs tiến lại gần và hôn lên môi Rhyme. Ở cô có vị son môi và mùi thuốc súng còn bám lại; cô đã tới trường bắn sáng hôm đó.
Nghĩ đến mĩ phẩm, Rhyme nhớ lại, nạn nhân trong vụ cướp của giết người ở Tòa thị chính đã cạo râu ngay trước khi rời văn phòng; những bọt kem và mẩu râu gần như vô hình đã được tìm thấy trên cổ và má anh ta. Anh ta cũng vừa xịt hoặc đắp nước hoa cạo râu xong. Trong lúc phân tích, Rhyme đã để ý đến những chi tiết này, vì chúng có thể hữu ích cho cuộc điều tra, còn Sachs thì trở nên bất động. Cô đã nói, “Vậy là đêm đó anh ta sẽ đi hẹn hò, chắc là hẹn bạn gái – anh sẽ không cạo râu để gặp bạn cùng giới đâu. Anh biết đấy, Rhyme, nếu anh ta không tốn năm phút cuối trong phòng vệ sinh, thời điểm xảy ra vụ án có thể đã thay đổi. Và mọi thứ có thể đã khác đi. Anh ta có thể đã sống sót đêm đó. Và có khi còn sống một cuộc đời dài và trọn vẹn nữa.”
Hoặc có thể anh ta sẽ chui vào xe sau khi say khướt và lao đầu vào một chiếc xe buýt chở đầy học sinh.
Cái trò đùa bỡn với định mệnh này thật phí phạm thời gian.
Tầm nhìn thứ nhất với cái chết, tầm nhìn thứ hai với cái chết.
“Anh đã biết tên nhà tang lễ chưa?” Sachs hỏi.
“Chưa.”
Vì không biết mình sắp bị bắt và vẫn tin rằng mình chỉ còn vài phút nữa là giết được Rhyme, Logan đã hứa sẽ tha mạng cho Sachs. Có lẽ điều này là một trong những lí do khác khiến Rhyme thương tiếc cho cái chết của hắn.
Thom gật đầu với Sachs. “Cô có muốn uống cà phê hay thứ gì khác không?”
“Cà phê là được rồi, cám ơn anh.”
“ Lincoln?”
Nhà tội phạm học lắc đầu.
Khi trợ tá của anh quay lại với cốc cà phê, anh ta đưa nó cho Sachs, cô cảm ơn anh ta. Mặc dù các dây thần kinh trên phần lớn cơ thể anh đều vô tri vô giác, nhưng các tế bào vị giác, tức chức năng nếm vẫn hoạt động hiệu quả và anh rất cảm kích vì Thom Reston pha cà phê cực ngon. Anh ta không bao giờ dùng viên nén hay bột xay sẵn, còn từ “hòa tan” thì không nằm trong từ điển của anh ta.
Với nụ cười nhăn nhở, viên trợ tá nói với cô, “Vậy. Cô nghĩ sao về mặt tình cảm sướt mướt này của Lincoln?”
Cô vòng tay ủ ấm quanh cốc cà phê. “Không, Thom, tôi nghĩ kể cả về mặt tình cảm thì anh ấy cũng có phương pháp đấy.”
A, đúng là Sachs của ta. Lúc nào cũng động não. Đó là một trong những lí do khiến anh yêu cô. Mắt họ chạm nhau. Rhyme biết rằng nụ cười của anh, dù nhỏ đến đâu, cũng có thể khớp với nụ cười của cô theo từng sợi cơ một.
Sachs nói tiếp, “Thợ đồng hồ đã luôn là một ẩn số. Chúng ta không biết nhiều về hắn – chỉ biết hắn có những đầu mối liên lạc ở California. Vài họ hàng xa mà chúng ta chưa bao giờ lần tới được, và không có đồng bọn. Đây có thể là một cơ hội để tìm ra người quen biết hoặc làm việc cùng hắn – kể cả việc hợp pháp lẫn các kế hoạch phạm tội. Đúng chưa, Rhyme?”
Trúng phóc, anh nghĩ.
Rhyme nói với Pulaski, “Và khi nào tìm được nhà tang lễ, tôi muốn cậu tới đó.”
“Tôi à?”
“Nhiệm vụ bí mật đầu tiên của cậu đấy.”
“ Không phải đầu tiên,” cậu ta chỉnh lại.
“Đầu tiên tại một đám tang.”
“Thế thì đúng thật. Tôi sẽ là ai đây?”
Rhyme nói điều đầu tiên anh kịp nghĩ ra. “Harold Pigeon.”
“ Harry Pigeon?”
“Tôi đang nghĩ đến chim.” Một cái hất cằm về phía tổ chim đại bàng trên bệ cửa sổ nhà Rhyme, chúng đang túm tụm vào nhau trước cơn bão. Những con đại bàng thường làm tổ ở dưới thấp mỗi khi thời tiết xấu.
“Harry Pigeon.” Chàng cảnh sát lắc đầu. “Không đời nào.”
Sachs cười phá lên. Rhyme nhăn nhó. “Tôi không quan tâm. Cậu tự nghĩ ra cái tên chết tiệt nào cũng được.”
“Stan Walesa. Tên của ông ngoại tôi.”
“Tuyệt.” Anh ném cái nhìn sốt ruột vào một chiếc hộp ở góc phòng. “Kia. Lấy một trong mấy cái kia.”
“ Cái gì đó?”
Sachs giải thích, “Điện thoại trả tiền trước. Chúng tôi có năm, sáu cái ở đây để dành cho các hoạt động như thế này.”
Tay cảnh sát trẻ tới lấy một cái. “Nokia à. Hừm. Điện thoại gập. Đời mới nhất.” Cậu ta nói với thái độ châm biếm.
Trước khi Pulaski bấm số, Sachs nói, “Nhớ là phải thuộc lòng số điện thoại ấy trước, để nếu có ai hỏi thì anh sẽ không bị lúng túng.”
“Chắc chắn rồi. Tốt lắm.” Pulaski dùng chiếc điện thoại trả trước gọi sang điện thoại cá nhân và lưu lại số rồi đứng sang một góc để gọi điện.
Sachs và Rhyme quay sang bản báo cáo hiện trường vụ cướp của giết người ở Tòa thị chính để chỉnh sửa thêm.
Một lát sau Pulaski quay lại. “Bệnh viện nói họ đang chờ tin xem phải gửi cái xác đi đâu. Giám đốc nhà xác nói ông ấy đang chờ một cuộc gọi trong vòng vài giờ nữa.”
Rhyme nhìn cậu ta một lượt từ đầu đến chân. “Cậu sẵn sàng chưa?”
“Tôi đoán là rồi.”
“Nếu có đám tang, cậu sẽ đi. Nếu không, cậu sẽ đến nhà tang lễ cùng lúc với kẻ tới đó nhận di thể. Hoa của tôi cũng sẽ xuất hiện ở đó. Giờ, đó sẽ là cách mở đầu câu chuyện – kẻ mà Richard Logan đã cố giết, kẻ đưa hắn vào tù nay lại gửi hoa tới tang lễ của hắn.”
“Còn Walesa thì sẽ là ai?”
“Một cộng sự của Logan. Chính xác là ai thì tôi không chắc. Tôi sẽ phải nghĩ kĩ đã. Nhưng hắn nên là một kẻ khó lường, nguy hiểm.”
Anh cau mày. “Tôi ước gì trông cậu không giống một thằng bé hầu việc ở nhà thờ như thế. Hồi xưa cậu làm việc cho nhà thờ hả?”
“ Cả tôi và anh trai tôi.”
“Luyện tập để trông bặm trợn hơn đi.”
“Đừng quên mục nguy hiểm nữa,” Sachs nói, “dù cái đó còn khó giả vờ hơn cả khó lường.”
Thom mang cho Rhyme một chút cà phê đựng trong chiếc cốc có ống hút. Rõ ràng trợ tá của anh đã để ý thấy anh liếc cốc cà phê của Sachs. Rhyme cảm ơn anh ta bằng một cái gật đầu.
Cặp vợ chồng già…
Thom bảo, “Giờ tôi thấy khá hơn rồi, Lincoln. Trong một phút tôi đã thực sự nghĩ mình đang chứng kiến mặt mềm yếu của anh. Hoang mang quá. Nhưng khi biết rằng anh chỉ đang dựng một cái bẫy để do thám gia đình của một cái xác? Niềm tin của tôi vào anh đã hồi phục.”
Rhyme làu bàu, “Đơn giản là logic thôi. Cậu thấy đấy, tôi có phải là một kẻ máu lạnh như mọi người vẫn nghĩ đâu.”
Dù nực cười ở chỗ đích thực Rhyme muốn gửi hoa tới cũng một phần vì lí do tình cảm: để tỏ lòng kính trọng với một địch thủ đáng gờm. Anh nghi là Thợ đồng hồ hẳn cũng sẽ làm điều tương tự cho anh.
Tất nhiên, dù nhìn nhận cái chết theo góc nhìn thứ nhất hay thứ hai, chúng cũng không hề loại bỏ lẫn nhau.
Sau đó Rhyme nghiêng đầu.
“Sao thế?” Sachs hỏi.
“Nhiệt độ đang là bao nhiêu?”
“Loanh quanh không độ.”
“Vậy là có băng đóng trên bậc thang bên ngoài đúng không?” Dinh thự của Rhyme có cả cầu thang bộ lẫn cầu trượt dành cho người tàn tật.
“Bậc tam cấp sau nhà có,” cô bảo. “Em đoán là mặt trước cũng có.”
“Tôi nghĩ chúng ta sắp có một vị khách.”
Mặc dù không có bằng chứng rõ ràng, Rhyme tin rằng sau vụ tai nạn cướp đi hầu hết các giác quan của anh, những giác quan còn lại đã trở nên mẫn cảm hơn. Cụ thể là thính giác. Anh phát hiện có tiếng bước chân lộp cộp ở bậc tam cấp trước nhà.
Một lát sau, tiếng chuông cửa vang lên và Thom ra trả lời.
Những tiếng dậm và bước chân của vị khách đi vào tiền sảnh và hướng đến phòng khách đã hé lộ ai là người tới thăm.
“Lon.”
Thanh tra cấp cao Lon Sellitto rẽ ở khúc quanh và bước qua vòm cửa, vừa đi vừa lột chiếc áo măng–tô Burberry. Chiếc áo màu nâu vàng nhàu nhĩ với rất nhiều nếp gấp đặc trưng trên hầu hết áo quần của Sellitto – hình thành nhờ cơ thể hình chum và cách đi đứng chẳng kiêng dè của anh ta. Rhyme tự hỏi sao anh ta không chịu trung thành với đồ tối màu, chúng sẽ không làm lộ nếp gấp trên vải nhiều như thế. Mặc dù khi chiếc áo khoác đã được cởi ra và vắt lên cái ghế mây, Rhyme nhận ra bộ vest màu xanh nước biển lại có một kiểu vấn đề khác.
“Thời tiết ngoài kia tệ quá,” Sellitto lẩm bẩm. Anh ta rũ mái tóc đen-xám mỏng dính và vài vụn tuyết rơi ra. Mắt anh nhìn chúng rơi xuống. Anh đã đi bộ trong bùn và tuyết. “Xin lỗi vì cái đó nhé.”
Thom bảo không cần lo lắng và mang cho anh ta một cốc cà phê.
“Tệ thật,” thanh tra nhắc lại trong lúc khum tay quanh cái cốc như Sachs đã làm. Mắt anh nhìn ra cửa sổ, ở một bên thành cửa, đằng sau tổ chim đại bàng, bạn có thể thấy cả băng tuyết, sương mù và những cành cây đen thui. Và một cái gì đó bé xíu của Công viên Trung tâm.
Rhyme không ra ngoài nhiều lắm và dù thời tiết có thế nào thì cũng chẳng có ý nghĩa gì với anh, trừ khi nó là một yếu tố trên hiện trường.
Hoặc nó giúp anh phát hiện có khách tới thăm sớm hơn.
“Sắp xong rồi,” Rhyme nói và hất cằm về phía bản báo cáo hiện trường của vụ cướp của giết người.
“Ừ, ừ, không phải vì nó mà tôi đến đây đâu.” Lon nói liền một mạch.
Rhyme bắt đầu chú ý. Sellitto là thanh tra cao cấp của phòng Trọng án và nếu anh ta không đến đây để nhận báo cáo, vậy thì hẳn là có một thứ gì khác thú vị hơn sắp lộ diện. Dấu hiệu tốt lành hơn nữa là Lon đã thoáng thấy cái khay bánh do Thom tự làm nhưng lại quay đi cứ như những chiếc bánh ấy vô hình vậy. Nhiệm vụ của anh ta ở đây chắc là khẩn cấp lắm.
Do đó, anh tập trung lại.
“Chúng tôi nhận được một cuộc gọi báo một án mạng ở SoHo, Linc à. Ngay ngày hôm nay. Chúng tôi đã tổ chức bốc thăm và anh giật giải. Hi vọng anh đang rảnh.”
“Làm sao tôi lại được chọn nếu tôi chưa từng bốc cái thăm nào?”
Một ngụm cà phê. Lờ tịt Rhyme. “Vụ này khó nhằn đây.”
“Tôi đang nghe.”
“Một cô gái bị bắt cóc từ tầng hầm của cửa hàng nơi cô ta làm việc. Một cửa hàng bán quần áo thời trang. Kẻ thủ ác lôi cô ấy đi qua một cánh cửa thông vào một đường hầm bên dưới tòa nhà.”
Rhyme biết bên dưới SoHo có cả một mê cung đường hầm, chúng được đào từ nhiều năm trước để luân chuyển hàng hóa giữa các tòa nhà. Anh luôn tin rằng chẳng chóng thì chầy sẽ có kẻ dùng nơi đó như một bãi giết chóc.
“Có tấn công tình dục không?”
“Không, Amelia,” Sellitto nói. “Có vẻ như thủ phạm là một nghệ sĩ xăm. Và theo lời cảnh sát tại hiện trường thì tên khốn đó khá là thạo việc. Hắn xăm cho cô ấy. Chỉ có điều không dùng mực xăm. Hắn dùng thuốc độc.”
Rhyme là một nhà khoa học pháp y đã nhiều năm; tâm trí anh thường đưa ra những suy luận chính xác từ vài chi tiết cho trước ít ỏi. Nhưng việc loại suy chỉ có tác dụng khi các dữ kiện đưa ra có sự tương đồng với dữ kiện trong quá khứ. Thông tin này thì hoàn toàn chưa có trong trí nhớ của Rhyme và cũng không tạo ra điểm khởi đầu cho bất kì một giả thuyết nào hết.
“Hắn dùng loại độc dược nào?”
“Họ chưa biết. Tôi đã nói rồi mà, vụ án vừa mới xảy ra thôi. Chúng tôi đang khoanh giữ hiện trường.”
“Thông tin thêm đi, Lon. Hình xăm thì sao? Hắn xăm gì lên người cô ấy?”
“Họ bảo có vài chữ gì đấy.”
Các tình tiết ngày càng hấp dẫn rồi đây. “Anh có biết đó là gì không?”
“Cảnh sát ở hiện trường không nói. Nhưng họ bảo tôi rằng có vẻ như đó không phải là một câu hoàn chỉnh. Và anh có thể đoán được nó có nghĩa là gì.”
“Hắn sẽ cần thêm nạn nhân,” Rhyme nói và liếc sang Sachs. “Để hắn có thể truyền tải nốt thông điệp.