S
ellitto đang giải thích:
“Tên cô gái là Chloe Moore, hai mươi sáu tuổi. Diễn viên bán thời gian – đã nhận vài vai diễn trong các quảng cáo và vai quần chúng trong những bộ phim hành động. Làm việc ở cửa hàng thời trang để kiếm ăn hàng ngày.”
Sachs hỏi những câu thông thường: Cô ta có vấn đề gì với bạn trai, với chồng con, hay có quan hệ tay ba nào không?
“Không, chúng tôi chưa xác định được bất kì vấn đề gì. Tôi chỉ mới điều cảnh sát mặc đồng phục đi dò hỏi quanh khu ấy nhưng thông tin ban đầu từ các nhân viên cửa hàng và bạn cùng phòng cho thấy cô gái có mối quan hệ với toàn người tử tế. Khá là thủ cựu. Hiện không có bạn trai và cũng không có vụ chia tay tồi tệ nào.”
Rhyme tò mò. “Có hình xăm nào ngoài cái mà tên sát nhân đã dùng để giết cô ấy không?”
“Tôi không biết. Những người đầu tiên phát hiện đã bỏ ra ngoài ngay khi đội y tế xác nhận DCDS1.”
1 DCDS là viết tắt của Deceased, Cofirmed Dead at the Scene, tạm dịch ‘Đã chết, xác nhận tử vong tại hiện trường’.
Đã chết, xác nhận tử vong tại hiện trường. Tuyên bố chính thức từ đội ngũ nhân viên y tế của thành phố sẽ đánh dấu thời điểm tính giờ tại hiện trường và khởi động đủ loại quy trình. Một khi đã có thông báo DCDS, sẽ không ai còn lí do gì để nấn ná ở hiện trường; Rhyme đã khăng khăng bắt các cảnh sát phát hiện vụ án phải rời khỏi đó ngay để tránh nhiễu loạn thông tin. “Tốt lắm,” anh bảo Sellitto. Anh nhận ra mình đã hoàn toàn nhập tâm vào góc nhìn cái chết thứ nhất.
“Được rồi, Sachs. Chúng ta làm đến đâu với công chức thành phố rồi?” Một cái liếc nhìn về phía bản báo cáo vụ án ở Tòa thị chính.
“Em nghĩ là xong rồi. Vẫn đang chờ danh sách khách hàng đã mua dao nhãn hiệu đó. Nhưng em cá là thủ phạm không dùng tới thẻ tín dụng của hắn hay điền vào phiếu xin ý kiến khách hàng đâu. Giờ thì không còn gì nhiều để làm nữa.”
“Đồng ý. Được rồi, Lon, chúng tôi nhận vụ này. Mặc dù tôi không thể không lưu ý rằng anh đã không thèm hỏi tôi. Anh chỉ việc thay tôi rút thăm và lao vù vù đến đây, cứ như thể chắc chắn rằng tôi sẽ nhận vụ này nhỉ.”
“Thế anh còn làm cái quái gì khác được hả, Linc? Đi trượt tuyết xuyên vùng nông thôn trong Công viên Trung tâm chắc?”
Rhyme thích mọi người không do dự trước bệnh tật của anh, khi họ không ngại ngần nói đùa về chuyện ấy như Sellitto. Anh chỉ cáu khi người ta đối xử với anh như một con búp bê hỏng.
Nào, nào, tội nghiệp anh quá…
Sellitto nói, “Tôi đã gọi đội Khám nghiệm Hiện trường ở Queens rồi. Có một chiếc RRV đang trên đường đến. Họ sẽ để cô dẫn dắt, Amelia.”
“Tôi đi đây.” Cô quàng khăn len và đi găng tay vào. Cô chọn một chiếc áo da khác trên mắc áo, nó dài tới giữa đùi. Suốt những năm họ bên nhau, Rhyme chưa bao giờ trông thấy cô mặc cái áo khoác nào dài trọn vẹn. Chỉ có áo khoác ngắn hoặc áo thể thao là hết cỡ. Cô cũng hiếm khi mặc áo gió, trừ khi đang làm nhiệm vụ chìm hoặc ở trong đội tác chiến.
Ngọn gió đang đập vào các cửa sổ cũ kĩ, làm khung cửa rung bần bật, và Rhyme suýt nữa thì đã nhắc Sachs lái xe cẩn thận – cô điều khiển một chiếc xe phân khối lớn loại cổ điển bốn bánh dẫn động có khuynh hướng di chuyển khó khăn trên đường có băng tuyết – nhưng bảo Sachs cẩn trọng chẳng khác nào bảo Rhyme phải kiên nhẫn; chuyện ấy đơn giản là không xảy ra.
“Cô muốn tôi giúp không?” Pulaski hỏi.
Rhyme cân nhắc. Anh hỏi Sachs, “Em có cần cậu ta không?”
“ Không biết. Có thể là không. Chỉ có một nạn nhân trong một khu vực khép kín.”
“Trong thời gian này cậu là cảnh sát chìm đóng giả người đưa tang của chúng tôi, lính mới ạ. Ở lại đây đi. Chúng tôi sẽ nghĩ ra kịch bản cho cậu.”
“Được thôi, Lincoln.”
“Em sẽ gọi lại từ hiện trường,” Sachs nói rồi chộp lấy chiếc túi vải màu đen có chứa thiết bị liên lạc mà cô dùng để nói chuyện với Rhyme tại hiện trường và vội vã lao ra cửa. Tiếng gió hú thoáng qua, sau đó là tiếng ‘kẹt’ và ‘rầm’ một cái, rồi mọi thứ lại rơi vào im lặng.
Rhyme để ý thấy Sellitto đang dụi mắt. Khuôn mặt anh ta xám xịt và cả người toát lên vẻ kiệt sức.
Thanh tra cũng nhận ra Rhyme đang nhìn về phía mình. Anh ta bảo, “Cái vụ Met chết tiệt đấy. Nó làm tôi không được ngủ tí nào. Có kẻ nào lại đột nhập vào một nơi chứa các tác phẩm nghệ thuật trị giá một tỉ đô, ngó nghiêng chỗ này chỗ kia rồi đi ra tay không chứ? Không hợp lí tí nào.”
Tuần trước, có ít nhất ba thủ phạm rất thông minh đã đột nhập vào Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan trên Đại lộ Năm sau giờ mở cửa. Các camera đều bị vô hiệu hóa và còi báo động thì bị tắt – một việc không hề dễ dàng chút nào – nhưng một cuộc kiểm tra kĩ càng tại hiện trường chỉ cho thấy thủ phạm dành thời gian tại hai nơi. Đầu tiên là sảnh chứa đồ cổ của bảo tàng, nơi được mở cho công chúng đến xem – địa điểm yêu thích của các nam sinh, chứa đầy gươm, rìu chiến, áo giáp và hàng trăm dụng cụ thông minh khác dùng để cắt các bộ phận trên cơ thể người. Thứ hai là kho lưu trữ dưới tầng hầm, các khu vực để đồ dự trữ và bảo trì. Chúng đã bỏ đi sau vài giờ và tái khởi động chuông báo động từ xa. Vụ đột nhập chỉ được dựng lại từ các chi tiết thu thập được nhờ phân tích máy tính về những lần tắt máy quay an ninh và kiểm tra thực tế các phòng sau khi phát hiện chuông báo động bị xâm phạm.
Vụ việc gần giống như thể những tên trộm là một trong rất nhiều khách du lịch đã viếng thăm bảo tàng: Họ đã xem đủ, thấy tẻ nhạt và bắt đầu hướng tới một nhà hàng hay quán bar gần nhất.
Một cuộc tổng kiểm tra kho cho thấy dù vài hiện vật ở cả hai khu vực đã bị di chuyển, nhưng những kẻ đột nhập không hề lấy đi dù chỉ một bức tranh, bộ sưu tập hay một tập giấy ghi chú. Các điều tra viên Hiện trường – Rhyme và Sachs không làm vụ đó – bị choáng bởi kích thước không gian họ phải kiểm tra; nguyên khu vực bày biện vũ khí và giáp đã đủ tệ rồi nhưng hệ thống kho lưu trữ và phòng để đồ dự trữ còn được kéo dài mãi về phía đông dưới lòng đất, vượt qua cả Đại lộ Năm.
Vụ việc tốn rất nhiều thời gian nhưng Sellitto đã phải thừa nhận đó còn chưa phải phần tệ nhất. “Chính trị. Vấn đề chính trị chết tiệt cơ.” Anh ta giải thích tiếp, “Hizzoner nghĩ ông ta bị mất mặt khi để trộm đột nhập vào viên ngọc quý của mình. Tức là: Đội của tôi phải làm thêm quần quật và mặc xác những việc khác. Chúng ta có những lời đe dọa khủng bố trong thành phố này đó Linc à. Mã đỏ mã cam hay cái màu chết tiệt gì đi chăng nữa thì nó cũng ám chỉ chúng ta đang gặp nguy. Chúng ta có những thằng Tony Soprano tập sự. Còn tôi thì đang làm gì? Tôi phải săm soi từng căn phòng phủ bụi, từng bức tranh và mọi bức tượng lõa lồ trong tầng hầm. Từng cái một ấy nhé. Anh muốn biết cảm xúc của tôi với nghệ thuật là gì không, Linc?”
“Là gì hả, Lon?” Rhyme hỏi.
“Mả cha nghệ thuật. Cảm giác của tôi đấy.”
Nhưng giờ đây vụ án mới – nghệ sĩ xăm bằng độc dược – đã đẩy lùi vụ án cũ vào dĩ vãng khiến viên thanh tra nhẹ nhõm thấy rõ. “Khi thành phố xuất hiện một tên sát thủ như thế này, cánh báo chí sẽ không vui vẻ gì khi thấy chúng tôi dành thời gian lo lắng cho mấy bức tranh vẽ hoa huệ hay tượng các vị thần Hi Lạp cu nhỏ đâu. Anh đã xem mấy bức tượng ấy chưa, Linc? Một vài gã… Thật sự, anh hẳn là nghĩ mấy cha người mẫu phải bảo các nghệ sĩ điêu khắc tăng thêm vài phân chứ nhỉ.”
Anh ta ngồi phục xuống một cái ghế, uống thêm cà phê. Vẫn không quan tâm gì đến chỗ bánh mì.
Lúc ấy Rhyme cau mày. “Còn chuyện này nữa, Lon?”
“ Sao?”
“Chính xác thì vụ giết người bằng hình xăm này xảy ra khi nào?”
“ Thời điểm tử vong là khoảng một giờ trước. Có lẽ là chín mươi phút trước.”
Rhyme thắc mắc. “Lúc đó anh làm gì đã nhận được báo cáo về chất độc nhỉ.”
“Chưa đâu, đội y tế bảo phải mất vài giờ.”
“ Vậy làm sao họ biết cô ấy đã bị đầu độc?”
“Ồ, một trong các nhân viên y tế từng khám nghiệm trong một vụ đầu độc vài năm trước. Anh ta bảo nhìn vào cách mở miệng và dáng nằm là đoán được. Anh biết đấy, do đau đớn. Đó là một cách chết kinh khủng lắm. Chúng ta phải tóm được tên khốn này, Linc.”