K
hi nhắc đến từ “chủ nghĩa khủng bố” thì rất nhiều người Mĩ, có lẽ là phần lớn, nghĩ đến những nhóm Hồi giáo quá khích nhắm vào đất nước này vì những giá trị mờ ám nuông chiều bản thân của nó hay vì sự ủng hộ cho Israel.
Mặc dù vậy Lincoln Rhyme biết rằng những tên Hồi giáo cực đoan chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong số những kẻ có hệ tư tưởng không hài lòng với nước Mĩ và sẵn sàng thể hiện quan điểm một cách bạo lực. Và hầu hết những tên khủng bố đều là da trắng, những công dân mang thẻ Cơ đốc.
Lịch sử khủng bố nội địa rất dài. Vụ đánh bom Haymarket ở Chicago năm 1886. Văn phòng của tờ Los Angeles Times đã bị thổi tung bởi liên hiệp những kẻ có quan điểm chính trị cực đoan vào năm 1910. San Francisco thì chấn động vì vụ đánh bom vào Ngày Chuẩn bị để phản đối đề xuất tham chiến vào Thế chiến thứ nhất. Và một quả bom trong xe ngựa kéo bên ngoài ngân hàng J.P. Morgan đã giết hàng chục người và làm bị thương hàng trăm người năm 1920. Khi năm tháng qua đi, sự phân rẽ về chính trị và xã hội vốn là động cơ của những hành động tương tự vẫn không bị xoá bỏ. Thực tế, hoạt động khủng bố ngày càng phát triển, nhờ có mạng Internet, những kẻ chống đối có cùng ý tưởng có thể tụ tập và âm mưu với nhau mà vẫn tương đối ẩn danh.
Công nghệ phá hủy cũng được cải thiện, cho phép những kẻ như Unabomber khủng bố các trường học và học viện rồi lẩn tránh cuộc điều tra trong nhiều năm trời một cách khá dễ dàng. Timothy McVeigh chế tạo một quả bom bằng phân bón, thứ đã phá huỷ được cả một toà nhà liên bang ở Thành phố Oklahoma.
Hiện nay, Rhyme biết có khoảng hơn hai chục tổ chức khủng bố vẫn đang hoạt động bị FBI và các nhà chức trách địa phương giám sát, từ Đội quân của Chúa (chống phá thai), đến Các quốc gia Arya (Chủ nghĩa dân tộc phát xít mới, da trắng), tới Hội tu sĩ Phineas (chống đồng tính, chống hôn nhân đa sắc tộc, bài Do Thái và chống đánh thuế, cùng với những thứ khác), và cả những nhóm nhỏ lẻ, vô tổ chức của những kẻ điên rồ mà cảnh sát gọi là “các ban nhạc rác rưởi”.
Các nhà chức trách còn canh chừng một loại khủng bố tiềm tàng nữa: các nhóm dân quân. Họ biết có ít nhất một nhóm kiểu này ở mỗi bang thuộc liên hiệp cũ, với tổng số thành viên lên tới hơn năm mươi ngàn người.
Các nhóm này ít nhiều đều hoạt động độc lập nhưng lại được kết nối bằng những quan điểm chung: rằng chính quyền liên bang đang can thiệp quá sâu và là một hiểm hoạ với tự do cá nhân; đòi thuế thấp hơn hay không nộp thuế; coi Cơ đốc giáo là quốc giáo, quan điểm cô lập trong các vấn đề chính sách với ngoại bang; không tin tưởng phố Wall và toàn cầu hoá. Trong khi không nhiều nhóm dân quân đưa chúng vào tôn chỉ của họ, họ vẫn ôm ấp vài chính sách bất thành văn như phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc, chống nhập cư, thù ghét phụ nữ và bài Do Thái, chống phá thai và chống “giới tính thứ ba”.
Vấn đề cụ thể với các tổ chức dân quân này là, theo định nghĩa, họ là những nhóm bán quân sự; họ nhiệt thành tin tưởng vào tu chính án thứ hai (“Một tổ chức Dân quân được kiểm soát tốt là cần thiết với an ninh của một tiểu bang tự do, quyền giữ và mang vũ khí không được phép xâm phạm”). Điều đó có nghĩa là họ thường được vũ trang đến tận răng. Cần thừa nhận rằng vài tổ chức dân quân không phải các tổ chức khủng bố và tuyên bố vũ khí của họ chỉ là để đi săn hay tự vệ. Những kẻ khác, như tổ chức Hội đồng thứ nhất các gia đình Mĩ của Matthew Stanton, rõ ràng là cảm thấy khác.
Tại sao thành phố New York lại là một mục tiêu đặc biệt hấp dẫn thì Rhyme chưa bao giờ nghĩ ra (kì lạ thay các tổ chức dân quân lại thường bỏ qua Washington, DC). Có thể vì Quả táo Lớn1 có những cái bẫy hấp dẫn khác: người đồng tính, một lượng lớn dân số phi- Ănglô, ngôi nhà của báo chí tự do, trụ sở của quá nhiều công ty đa quốc gia. Nếu Rhyme tính tổng số những tên tội phạm anh đã phải chống lại trong nhiều năm qua, anh đoán mình sẽ xếp hạng nhất cho những kẻ rối loạn nhân cách phản xã hội (chính là lũ điên cuồng) và hạng hai là bọn khủng bố nội địa, số lượng lớn hơn nhiều những tên chủ mưu hay tội phạm có tổ chức từ ngoại bang.
1 “Quả Táo Lớn”: là biệt danh của thành phố New York.
Giống như cặp vợ chồng mà anh sắp nói chuyện cùng đây: Matthew và Harriet Stanton.
Rhyme đang ở tầng mười trong khách sạn nơi nhà Stanton thuê, cùng với các cảnh sát thuộc đội Khẩn cấp của NYPD.
ESU đã kiểm tra cả toà nhà và không tìm được đồng phạm nào khác. Rhyme và Sachs cũng không trông đợi có thêm. Các ghi chép từ khách sạn cho thấy chỉ có vợ chồng Stanton và con trai họ ở đây. Rõ ràng họ còn có một thủ phạm khác – Nghi can 11-5 đã chết – nhưng không có bằng chứng về bất kì kẻ nào khác ở New York.
Sau khi Rhyme và Sachs xác định được nhà Stanton có dính líu đến hành động khủng bố, họ cùng với Bo Haumann đã tập hợp một đội tác chiến để tóm gọn cả ba.
Giám đốc khách sạn đã sắp xếp cho thang máy bỏ qua tầng mười và dời nhân viên đi nơi khác trong khi cảnh sát sơ tán những vị khách thật sự trên tầng đó. Rồi các nữ cảnh sát ESU mặc bộ quần áo của tổ dọn dẹp, ném những khẩu MP-7 của họ vào xe đẩy đựng đồ giặt là và đứng chờ tại thang máy cho đến khi cả nhà họ xuất hiện.
Ngạc nhiên chưa…
Không có lấy một tiếng súng.
Đội phá bom đã rà soát căn phòng – không có bẫy sập nào, thực tế, không còn lại gì nhiều. Những kẻ khủng bố chỉ mang theo ít đồ. Sachs hiện đang khám nghiệm hiện trường tại đó.
Lúc này Lincoln Rhyme đang kéo con chuột xuống iPad của mình để đọc các bản báo cáo vừa được gửi cho anh trong nửa giờ trước từ FBI ở St Louis, văn phòng thực địa gần nhất với quê nhà Nam Illinois của nhà Stanton và AFFC. Nhóm này đã nằm trong vòng theo dõi của cả Cục và cảnh sát tiểu bang Illinois – thành viên của nhóm bị tình nghi trong các vụ tấn công người đồng tính và người thiểu số, và cả những tội ác phân biệt chủng tộc khác nhưng họ chưa thể chứng minh được gì. Phần lớn họ tưởng bọn chúng chỉ là thùng rỗng kêu to.
Ngạc nhiên chưa.
Các nhà chức trách ở Trung tây đã bắt giữ thêm ba người khác trong hội AFFC vì tàng trữ chất nổ và súng máy mà không có giấy phép của liên bang. Và cuộc lục soát ở đó vẫn còn tiếp diễn.
Amelia Sachs tham gia cùng anh khi đã hoàn thành công việc khám nghiệm hiện trường.
“Còn gì sót lại không?” Anh nhìn cái thùng sữa cô đang cầm. Trong đó chất khoảng sáu cái túi giấy và túi nhựa. “Không nhiều. Rất nhiều nước đóng chai.”
Rhyme cười gằn. “Để xem mấy người bạn của chúng ta có sẵn lòng tâm sự tỉ tê không.” Một cái hất cằm về phía phòng để đồ của khách sạn, nơi nhà Stanton đang bị giam giữ chờ FBI đến; phía cục đã chỉ định rất rõ về điểm này.
Họ đi và đẩy xe vào trong phòng, nơi các tù nhân ngồi trong tư thế bị còng cả tay lẫn chân. Bố mẹ và cậu con trai - đứa con duy nhất của họ như Rhyme được biết – cùng nhìn lại với ánh mắt quyết tâm dè dặt. Họ bị ba cảnh sát NYPD canh gác.
Nếu nhà Stanton có tò mò bằng cách nào Rhyme đã phát hiện ra họ là đồng phạm của nghi can, và đây là khách sạn nơi họ ở, thì bọn họ cũng không có bất kì biểu hiện gì là muốn biết câu trả lời. Và câu trả lời ấy gần như vụn vặt đến đáng hổ thẹn, không liên quan gì đến việc phân tích bất kì bằng chứng nào. Ba lô của nghi can 11-5 thu được bên cạnh thi thể hắn gần đường ống nước chính có chứa một cuốn sổ tên là Cuộc biến cải, một danh sách chi tiết các bước trong âm mưu đầu độc hệ thống nước uống của New York. Họ đã biết nhà Stanton ở đây vì Harriet đã nói điều này với Sachs. Vậy là cặp vợ chồng biết nghi phạm. Cuộc “tấn công” ở bệnh viện hoá ra chẳng phải là tấn công. Nghi phạm có lẽ chỉ tới đó để thăm bệnh đồng nghiệp bị ốm của mình, Matthew Stanton, nằm trong phòng điều trị tim mạch của bệnh viện đó.
Khi nghĩ lại, rõ ràng có những manh mối mà họ khám phá được có thể dẫn tới kết luận nhà Stanton có liên quan. Chẳng hạn, chữ viết trên chiếc túi chứa mô cấy ở Belvedere có ghi Số 3, gợi ý rằng cuộc tấn công vào Braden Alexander là lần thứ ba. Nhưng nếu cuộc tấn công vào Harriet Stanton là thật thì cái túi phải ghi Số 4 mới đúng.
Tương tự như vậy, họ tìm được dấu vết mĩ phẩm của Harriet ở chỗ thủ phạm từng đến. Đúng là hắn đã tóm lấy bà ta trong bệnh viện và có thể đã nhận một vài dư chất chuyển sang, nhưng số lượng của chúng phải tối thiểu mới đúng. Nhiều khả năng hơn là hắn đã bị dính phải những chất ấy trong lúc ở cùng bà ta. Hơn nữa, Rhyme nhớ lại những dấu bao giày tiến và lùi ở hiện trường; gợi ý rằng một tòng phạm đã mang đèn và ắc-quy vào sau khi các vụ xăm mình chết chóc kia xảy ra. Một cuộc kiểm tra với khách sạn đã hé lộ vợ chồng Stanton đi cùng con trai họ, Josh, một thanh niên trẻ, cường tráng, có thể dễ dàng đẩy các dụng cụ nặng nề vào sau khi anh họ cậu ta đã làm xong phần giết người.
Nhưng đôi khi số phận vẫn chen vào.
Một mẩu giấy ẩm có ghi địa chỉ - đã được tìm thấy trong đồ đạc của thủ phạm.
“Ông bà biết quyền của mình chứ?” Sachs hỏi.
Cảnh sát đứng sau Harriet Stanton gật đầu.
Khuôn mặt dài của Matthew tái nhợt với nước da bì bì, ông ta bảo, “Chúng tôi không thừa nhận bất cứ quyền gì cả. Chính phủ không có thẩm quyền ban cho chúng tôi cái gì hết.”
“Vậy,” Rhyme đốp lại, “ông sẽ không có vấn đề gì khi nói chuyện với chúng tôi,” Anh nghĩ lí lẽ của mình không thể bẻ lại được. “Điều duy nhất chúng tôi cần ở thời điểm này là chứng minh thư của đồng nghiệp của ông. Kẻ đi cùng thuốc độc.”
Mắt Harriet sáng lên. “Vậy là nó đã trốn thoát.”
Rhyme và Sachs chia sẻ một cái nhìn. “Trốn thoát ư?” Rhyme hỏi.
“Không, anh ta không thoát,” Sachs nói với nhà Stanton. “Nhưng trên người anh ta không có giấy tờ gì và dấu vân tay cũng không cho kết quả. Chúng tôi hi vọng bà sẽ hợp tác và…”
Nụ cười của bà ta biến mất. “Nhưng như vậy các người đã bắt nó?”
“Tôi tưởng bà đã biết. Anh ta chết rồi. Bị dòng nước giết chết sau khi khoan cái lỗ đó. Bởi vì nguồn cấp nước chưa bao giờ bị ngừng.”
Sự im lặng tuyệt đối ngự trị. Nó chỉ bị phá vỡ vài giây sau đó khi Harriet Stanton bắt đầu gào thét không kiểm soát nổi.