• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Kẻ tiễn biệt
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 89
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 89
  • Sau

IIĐiều tốt đẹp nhất vẫn còn đang tới

18

NGÀY 15 THÁNG 6

Colter Shaw đang lái chiếc xe bán tải dọc theo con đường sỏi, qua một tấm biển hiệu đơn giản, màu tím trên nền trắng:

∞

THE OSIRIS FOUNDATION

Shaw tiếp tục đi theo lối vào chính, qua một khe hẹp lách giữa vách đá cao gần 20 mét. Nó gợi anh nhớ lại một khung cảnh trong bộ truyện anh từng đọc đi đọc lại hồi còn bé: Chúa tể của những chiếc nhẫn. Hình ảnh hiện ra trong đầu anh là lối vào bị cấm của một vương quốc cổ đại nào đó. Shaw để ý thấy vách đá dựng đứng ở đây – dù là tự nhiên hay do bàn tay con người – sẽ ngăn chặn một cách hiệu quả lối vào ra duy nhất bằng phương tiện giao thông. Anh đã nghiền ngẫm các bản đồ của khu vực; không có con đường nào khác, thậm chí còn không có cả các đường mòn chở gỗ xưa cũ, để cung cấp nguyên liệu cho trại của Osiris Foundation.

Một khi đã đi qua bức tường đá, anh nhìn thấy trước mắt là một hàng rào dây xích cao gần 2 mét. Anh lái xe tới nhà bảo vệ bên cạnh chiếc cổng mô-tơ. Căn chòi rộng khoảng 2,5x2,5 mét. Một ống khói nhô ra, khiến Shaw biết rằng cánh cổng luôn luôn có người điều khiển, dù là mấy giờ đi nữa; buổi tối ở vùng thung lũng núi luôn lạnh lẽo, thậm chí cả vào mùa hè. Anh nhớ ra là trại Osiris Foundation đóng cửa vào mùa thu và mùa đông. Đường Harbinger chắc sẽ không thể nào đi được trong phần lớn những tháng giá lạnh đó.

Một người đàn ông với thân hình rắn chắc trong chiếc quần đen và áo sơ mi màu xám kỳ lạ – chiếc áo dài đến ngang đùi – bước tới cửa sổ xe của Shaw. Anh ta đeo một chiếc tai nghe uốn vòng thường thấy ở các nhân viên an ninh và những người dẫn chương trình trên tivi, một chiếc bộ đàm treo bên hông. Theo bản năng, Shaw quan sát bộ đồng phục, nếu như đó là đồng phục của họ, nhưng không nhìn thấy bóng một vũ khí nào bởi chiếc áo rộng thùng thình. Trên ngực áo là một tấm bảng tên viết ĐƠN VỊ HỖ TRỢ.

“Chào anh.” Người đàn ông nở một nụ cười dễ chịu.

“Xin chào,” Shaw nói. “Tôi có lịch hẹn.”

“Tên anh?”

“Carter Skye.”

Một thiết bị cầm tay được đưa ra và sau một vài thao tác chạm, danh tính của Shaw đã được ghi nhận.

“Rất vui được gặp anh, anh Skye. Giờ, anh có vũ khí, rượu hay chất gây nghiện trên người không, hoặc trên xe?”

“Không. Chỉ quần áo thôi, bộ cạo râu, đồ dùng thường ngày.”

Chạm chạm vài cái lên màn hình.

Anh đã thành thật về những món đồ mang theo, trừ tên mình, thế là tốt lắm rồi. Phía bên kia bãi đậu xe là hai người đàn ông mặc đồng phục y hệt nhau, kiểm tra kỹ lưỡng một chiếc xe thể thao đa dụng. Một người cầm một chiếc gương với tay cầm dài, soi phần gầm xe. Đây là cách mà lực lượng an ninh tìm kiếm bom và các chất gây nghiện.

Người bảo vệ bước tới phía sau chiếc Silverado và ghi gì đó lên một cái phong bì, có lẽ là biển số xe. Nếu ai đó kiểm tra – dù không có lý do gì để làm vậy – thì chiếc xe tải đã được cho thuê dưới tên một công ty. Ẩn danh một cách thích hợp và không đáng ngờ chút nào. Anh ta đưa chiếc phong bì cho Shaw. “Đậu chỗ nào cũng được, để chìa khoá bên trong và đi qua cổng chính. Sẽ có người ở đó hướng dẫn anh. Nhớ đừng quên giữ bản đăng ký.”

“Tôi hiểu rồi.”

Lại gõ gõ tiếp trên màn hình, và cánh cổng mở ra với một tiếng gằn nhẹ.

Sau khi đỗ xe, anh bước ra và lục trong ba lô tìm bản đăng ký, nhét nó vào túi trong của chiếc áo khoác gió sờn rách. Anh cũng mặc một chiếc áo phông màu trắng nhăn nhúm, quần jeans màu xanh nhạt và đôi bốt Nocona mòn vẹt màu nâu đậm. Nhấc hành lý, anh xoay người về lối vào trại. Hàng rào dây xích không phải là lớp rào chắn duy nhất bảo vệ Osiris Foundation. Shaw đang nhìn vào một hàng rào cọc nhồi cao. Cánh cổng ở lớp rào này được tạo bằng những thanh kim loại tối màu và phía trên là dòng chữ uốn sắt:

NGÀY HÔM QUA, NGÀY HÔM NAY, NGÀY MAI.

Hai tấm của cánh cổng, mỗi bên rộng 1,8 mét, đang mở ra. Anh bước qua chúng, và một người đàn ông có vẻ là anh em với người bảo vệ đầu tiên mỉm cười chào anh, lấy chiếc phong bì và hành lý của anh, sau đó đưa anh đi qua một máy dò kim loại.

Ở phía bên kia, Shaw xoay lưng về phía anh ta. Người bảo vệ chỉ vào một lối đi và nói, “Đi theo lối đó về trại. Nhà điều hành là toà nhà thứ ba bên tay trái.”

Anh với tay lấy ba lô và chiếc túi thể thao.

“Tôi sẽ giữ chúng giùm anh.”

“Tôi sẽ cầm theo.” Một chút e dè. Carter Skye đã từng trải qua vài khó khăn khốn đốn.

“Chúng tôi sẽ bảo quản chúng, thưa ngài.” Một nụ cười nữa nhoẻn trên môi. Kiểu thế. Chẳng có cách nào để Shaw giữ những chiếc túi nữa cả. Anh do dự. Rồi đưa chúng ra để nhận lại một phiếu gửi đồ.

Người bảo vệ gõ gõ màn hình.

Shaw đi theo con đường khoảng 30 mét qua khu rừng thơm mùi thông, bạch đàn và hoa nhài. Nơi những tán lá kết thúc, Shaw dừng lại và quan sát những gì trước mắt.

Trại Osiris Foundation nằm trong một thung lũng cỏ và rừng cây, rộng khoảng 30 mẫu. Những vách đá lởm chởm cao vút che khuất ba phía và, ở bên trái Shaw – phía Đông – là một khu rừng với những con đường chằng chịt. Bên ngoài khu đó là một vực sâu dốc đứng. Dù ta không thể nhìn thấy nó từ vị trí này, ở phía bên kia của vách đá là một cái hồ lớn mà anh đã thấy trên bản đồ. Qua những tán cây, anh có thể nhìn thấy phía xa xa là khung cảnh hùng vĩ của những dãy núi.

Shaw đếm những toà nhà được đánh số, hầu hết đều chỉ có một tầng. Dù sao thì, một toà nhà chiếm hữu cực nam của khu trại, thì lớn hơn những toà nhà khác. Nó có ba tầng và được bao bọc bởi một ban công kính vươn ra ngoài hình bát giác. Kiến trúc này nằm ở phía vành đai phía sau của khu trại, phía Nam. Shaw có thể đoán ra được ai sống trong đó.

Tất cả các toà nhà, có những mái chóp nhọn nhô lên để tránh thiệt hại do sức nặng của tuyết, được thiết kế theo kiểu nhà gỗ nhưng không được xây dựng bằng những nguyên liệu gỗ đẽo thủ công tại chỗ; các mảnh ghép quá giống nhau và được đặt chính xác vào vị trí. Đây là thành quả của kỹ thuật xây dựng tiền chế. Shaw biết quy trình. Toàn bộ khu trại có thể được lắp ghép chỉ trong vòng một tháng, và chi phí cũng không hề nhỏ.

Anh đã nghĩ nơi này giống như một khu cắm trại bởi cách mà nó được miêu tả trong tờ thông tin anh nhận được cùng với bản đăng ký. Vừa mới kết thúc một nhiệm vụ ở Thung Lũng Silicon hồi đầu tháng, anh cảm thấy tò mò vì từ này – ở đó, hầu hết các cơ sở được gọi là khuôn viên, như trong trường đại học. Trại thì lại mang nghĩa hoàn toàn khác. Tất nhiên là, có trại hè, nhưng cũng có cả trại huấn luyện. Trại tạm giam nữa chứ.

Và rồi, rùng mình với ý nghĩ, Colter Shaw nhận ra rằng dòng chữ hình cánh cung bằng sắt rèn ở cổng vào gợi nhớ đến một nơi khác, khét tiếng, từ tận thế kỷ trước.

Nơi này vừa đẹp đẽ vừa đáng lo ngại. Nhà giải giáo Anne DeStefano đã cảnh báo anh tránh xa nơi này. Nhưng anh không thể. Anh vẫn chưa nói với bà rằng anh thực sự có phần cá nhân trong chuyện này.

Adam Harper – người đã mạo hiểm đánh đổi mọi thứ để xoá đi nỗi đau buồn của Erick Young – đã chết vì anh.

Giờ đây, anh đã biết rằng cái chết ấy không bắt nguồn từ vụ án ở nhà thờ, vốn chỉ là hành động tự vệ chính đáng.

Ai cũng có nỗi buồn của riêng mình. Hãy sống và chấp nhận nó.

Câu nói đầy mỉa mai của cha Adam. Nhưng đôi khi ta không thể nào sống với nó được, đáng ra Shaw phải biết điều đó từ trước.

Cái chết của cậu ta là một câu hỏi cần phải được giải đáp

Một hình ảnh khác cũng vương lại trong anh: cô gái tóc nâu, cô độc giữa những người khác ở nơi Adam đã chết, đã thể hiện sự buồn đau sâu sắc trước cái chết của cậu ta. Và những lời nói cộc cằn của gã lái xe với cô… kiểu như một sự chấn chỉnh. Rồi cô co rúm lại, kinh hoàng trước sự đụng chạm ngoài ý muốn. Liệu có phải cô cũng đang gặp nguy hiểm như Adam, bởi điều gì đó ở Foundation?

Liệu những tín đồ khác cũng đang gặp nguy hiểm?

Sự nghiệp của Shaw với tư cách người săn thưởng, không, chính bản chất của anh là về sự sống còn. Cứu rỗi những sinh mạng. Tìm kiếm những nạn nhân bị bắt cóc, kẻ trốn chạy trong nguy hiểm, kẻ giết người hàng loạt đang theo dõi một nhân viên bán hàng hay một sinh viên. Và ở đây anh đã thất bại. Adam đã chết. Anh cần phải biết tại sao. Và anh cần phải biết nếu có ai khác ở đây cũng đang gặp nguy hiểm.

Shaw coi như việc anh đang làm lúc này giống như những nhiệm vụ săn thưởng khác, chỉ là không có phần thưởng nào. Anh tới đây để điều tra. Nếu như có bất kỳ ai cần được giải cứu, anh sẽ cứu người đó. Nếu cần phơi bày sự lạm dụng, thì đó là điều mà anh sẽ làm.

“Anh đang tìm Nhà điều hành đúng không, anh Skye?” Một giọng nói vang lên từ đằng sau. Đó là một người đàn ông mặc áo dài màu xám khác.

Cũng là nụ cười mỉm. Cũng với đôi mắt bình tĩnh, thận trọng. Anh ta xem xét cẩn thận bộ trang phục xộc xệch của Shaw, mặc dù chiếc máy dò kim loại đã đảm bảo rằng Shaw chẳng mang theothứ gì nguy hiểm trên người.

Làm thế nào mà anh ta biết được tên mình chứ?

Tất nhiên là từ chiếc máy tính bảng rồi, thứ mà anh ta đang nhét vào trong một chiếc túi đeo vai nhỏ.

Anh lầm bầm, “Tôi thấy nó rồi. Chỉ là đang nhìn ngắm nơi này. Quang cảnh thật đẹp.”

“Vâng, thưa ngài.” Người đàn ông vẫn thản nhiên.

Shaw hiểu ý anh ta – tương đương với câu lệnh “Đi tiếp đi”của một tay cớm – và bắt đầu bước xuôi theo con đường. Anh đi qua một toà nhà có biển ghi KHO HÀNH LÝ, rồi một toà nhà lớn hơn ghi, ĐƠN VỊ HỖ TRỢ.

Toà nhà tiếp theo là Nhà điều hành. Nó lớn hơn những toà nhà mà anh vừa đi qua. Bước vào một sảnh chờ sạch sẽ và vắng vẻ, anh được tiếp đón bởi một cô gái tóc nâu ở Bàn lễ tân. Cô ấy mới ngoài 30. Trang phục cô ấy mặc giống y hệt đồ của những người phụ nữ trên chiếc xe van trên đường tới Highland Bypass để đón Adam và Erick: áo xanh nhạt và váy đen.

Và cô đeo một chiếc vòng cổ – một ký hiệu vô cực màu tím, giống như cái của Harvey Edwards, kẻ sát hại người nhà báo ở San Francisco. Câu trả lời chắc chắn cho câu hỏi liệu hắn có liên quan gì tới Foundation hay không. Đây có lẽ chính là cái vòng cổ mà những tín đồ trên chiếc xe van đã đeo – cái mà anh đã không thể nào xác định rõ được từ khoảng cách xa.

Dọc theo hành lang dài phía sau cô gái, Shaw để ý thấy những cánh cửa treo biển ghi PHÒNG TIẾP NHẬN, PHÒNG KINH DOANH, PHÒNG KẾ HOẠCH, PHÒNG TRUYỀN THÔNG. Cũng có các văn phòng khác nữa, mặc dù hành lang khá tối và anh không thể đọc các biển hiệu từ đây.

Một chiếc máy tính bảng khác được sử dụng. “Anh Skye, mời đi tiếp vào trong.” Vẫy chỉ về phía phòng TIẾP NHẬN.

Đây là một căn phòng nguyên sơ, rộng khoảng 15x15 mét. Trên những bức tường sơn trắng là những bức hình bình minh và hoàng hôn thông thường. Ở bức tường phía trong cùng là một dòng chữ mực đen ghi:

THE OSIRIS FOUNDATION

NƠI MÀ NGÀY HÔM QUA LÀ CHÌA KHOÁ CHO NGÀY HÔM NAY TỐT ĐẸP HƠN VÀ NGÀY MAI HOÀN HẢO

Ở bức tường hông là dòng chữ khác:

ĐIỀU TỐT ĐẸP NHẤT VẪN CÒN ĐANG TỚI

Ở bàn lễ tân, gần cánh cửa, một người phụ nữ khác đang ngồi, bận nói chuyện điện thoại. Cô gái khoảng gần 30 tuổi, có mái tóc vàng óng. Cô ấy mỉm cười và giơ một ngón tay, ý xin chờ một phút. Ba chiếc bàn khác được kê dọc theo bức tường trong cùng, hai trong đó có những cô gái trẻ đang ngồi, nhìn vào máy tính bảng của mình. Những chiếc máy tính bảng được đặt trên giá đỡ để có thể sử dụng như những màn hình. Những người phụ nữ này cũng mặc trang phục màu xanh và đen, cùng với dây chuyền hình vô cực. Điều khác biệt duy nhất giữa họ là màu sơn móng tay và các phụ kiện. Cả ba người phụ nữ trong căn phòng đều xinh đẹp, có nụ cười rạng rỡ và đôi mắt điềm tĩnh, Họ, giống như tất cả những người mà Shaw đã nhìn thấy tới lúc này, đều là người da trắng.

Cũng có thêm vài người đăng ký khác nữa. Ở chiếc bàn phía xa là một người đàn ông đầu trọc trong bộ vest doanh nhân, đang trả lời những câu hỏi của nhân viên ở đây. Đang nói chuyện với người phụ nữ ở chiếc bàn nằm giữa là một cặp đôi, rõ ràng là đã kết hôn, cả hai đều tầm trung niên, và nhìn họ hơi ngượng ngùng. Họ đều đang cung cấp thông tin, và những lời đó được ghi lại trên chiếc máy tính bảng của nhân viên. Có một chiếc bàn thứ ba, nằm ở góc bên phải, không có ai ngồi. Chiếc máy tính bảng đặt trên đó đang úp mặt xuống.

Cô lễ tân dập máy rồi nói, “Chào mừng anh Skye.” Cô ấy nhìn vào chiếc máy tính bảng và thoáng chút do dự. Cảm giác của anh nói rằng cô ấy đã để ý thấy anh mất nhiều thời gian hơn bình thường để đi từ bãi đậu xe vào Nhà điều hành, bởi anh đã dừng lại để quan sát nơi này.

“Chuyên viên thực hiện quy trình tiếp nhận của anh đang bận chút việc. Sẽ mất một vài phút. Có một chiếc ghế dài ở bên ngoài. Thời tiết hôm nay không đến nỗi xấu lắm. Tại sao anh không ra đó đợi một lát? Tôi sẽ ra báo với anh khi cô ấy quay lại.”

Anh không có nhiều sự lựa chọn. Không có chiếc ghế nào trong phòng Tiếp nhận hay sảnh Nhà điều hành.

“Được thôi. Nơi này đã bao nhiêu năm rồi? Những toà nhà trông hẵng còn mới.”

“Ồ, tôi thực sự không biết. Anh sẽ phải đợi nhiều nhất là mười phút nữa.” Một nụ cười khác nhoẻn trên môi.

Shaw bước ra khỏi phòng Tiếp nhận. Khi anh đi qua cô lễ tân đầu tiên và gật đầu, cô ấy cũng mỉm cười chào lại. Anh để ý thấy cô ấy xoay chiếc máy tính bảng đi một chút.

Bước ra hiên nhà, một lần nữa anh được chào đón bởi mùi hương ẩm ướt của nhựa thông, vốn luôn đưa anh trở lại thời niên thiếu của mình. Trong bối cảnh này, ký ức gợi nhắc lại khi anh cởi thắt lưng, quấn nó quanh một cái cây, và dùng nó giống như một sợi dây giúp anh trèo lên trên cao để thoát khỏi thứ đang truy đuổi mình. Gấu cũng biết leo cây, nhưng trừ khi đang thực sự đói rã họng, chúng cũng có thể lười nhác như bất cứ người nào khác. Con gấu này dừng lại suy nghĩ một lúc, dường như bối rối trước một con mồi vừa có thể chạy và trèo – và làm cả hai điều đó thật nhanh chóng. Một loài quái thú mới chăng. Có thể là rắc rối. Con gấu quyết định bỏ đi.

Các giai điệu âm nhạc vang lên khắp khu trại, phần mở đầu mười lăm nốt nổi tiếng với dàn hợp xướng cất lời bài “Khải hoàn ca” trong Bản giao hưởng số chín của Beethoven. Chúng phát ra từ một chiếc máy phát nhạc điện tử, âm trầm. Nốt nhạc cuối cùng vang dài cho tới khi nó nhẹ dần và vụt tắt. Rồi giọng nói trầm bổng của một người phụ nữ cất lên qua loa, “Bây giờ là 4 giờ 30 phút chiều.”

Ngay khi định ngồi xuống chiếc ghế dài rỉ sét ở sảnh, anh dừng lại, nghe thấy tiếng van nài từ phía sau toà Nhà điều hành. Đó là giọng một người đàn ông có vẻ đang gặp chuyện rắc rối. Lúc đầu anh không thể nào nghe rõ anh ta nói gì. Nhưng rồi giọng nói lớn hơn:

“Không! Không! Dừng lại!” Theo sau đó là tiếng kêu yếu ớt – có ai đó đang đau đớn.