NGÀY 11 THÁNG 6, 8 GIỜ SÁNG, SÁU TIẾNG TRƯỚC ĐÓ
Shaw đang lướt chiếc xe cắm trại hiệu Winnebago dài gần 10 mét của mình qua những con đường quanh co lộng gió ở Gig Harbor, Tiểu bang Washington.
Với khoảng 7.000 cư dân, phong cảnh nơi đây vừa duyên dáng và lại vừa hoang sơ ở vùng ngoại ô. Chốn này, chắc chắn là một bến cảng, được bảo vệ cẩn thận, kết nối với Puget Sound qua một kênh đào hẹp mà ở đó những chiếc thuyền đánh cá và tàu du lịch đang lướt sóng. Chiếc Winnebago chạy qua cả những nhà máy đang hoạt động và những nhà máy đã bị bỏ hoang từ rất lâu, những nơi đóng góp nhiều vào nền công nghiệp sản xuất du thuyền cùng vô số bộ phận hay phụ kiện dùng cho tàu bè. Với một người chưa bao giờ ưa lái thuyền Colter Shaw, nó giống như việc người ta dành từng giây phút mỗi ngày thăm khám, sửa chữa, bảo dưỡng, lau dọn và sắp xếp một con tàu mà chưa một lần ra khơi.
Một tấm bảng hiệu “Phước Lành của Đoàn thuyền” nằm ở giữa khu cảng, ngày tháng ghi trên đó cho thấy nó mới được lắp đặt trong tháng này mà thôi.
DU THUYỀN CHÀO ĐÓN QUÝ KHÁCH!
Có lẽ nền công nghiệp hiện tại không còn mạnh mẽ như trước đây, và những người tổ chức sự kiện muốn thúc đẩy hình ảnh của nó thông qua việc sắp xếp thuyền máy du lịch của các luật sư, bác sĩ và những doanh nhân thành vòng tròn quanh con tàu chở hàng lớn – chắc có lẽ hình tròn cũng là hình dạng của phước lành cho đoàn thuyền.
Shaw, một thợ săn tiền thưởng chuyên nghiệp, đang ở đây để thực hiện nhiệm vụ – từ mà anh dùng để miêu tả việc mình làm. Còn vụ án là dành cho cảnh sát điều tra và công tố viên ra quyết định truy tố. Dù sau rất nhiều năm truy đuổi biết bao nhiêu tên tội phạm, Shaw đã có thể trở thành một điều tra viên giỏi, anh lại không muốn dính líu chút nào tới những chế độ và quy chế hà khắc đối với nhân viên biên chế. Anh hoàn toàn tự do để thực hiện, hoặc từ chối, bất cứ nhiệm vụ nào mà anh muốn. Anh có thể lựa chọn việc từ bỏ nhiệm vụ bất cứ lúc nào.
Tự do có ý nghĩa vô cùng lớn đối với Colter Shaw.
Anh hiện còn đang suy nghĩ về tội ác do thù hằn đã đưa anh đến đây. Trên trang đầu tiên trong cuốn sổ tay dành riêng cho cuộc điều tra, anh đã viết ra những tình tiết được một trong những người quản lý công việc của anh cung cấp:
Địa điểm: Gig Harbor, Hạt Pierce, Tiểu bang Washington.
Tiền thưởng cho: Thông tin quan trọng giúp bắt giữ và kết tội hai cá nhân:
Adam Harper, 27 tuổi, công dân Tacoma.
Erick Young, 20 tuổi, công dân Gig Harbor.
Sự việc: Đã xảy ra hàng loạt tội ác do thù hằn ở địa phận Hạt, trong đó những hình graffiti chữ vạn và số 88 (biểu tượng của Phát xít), số 666 (ký hiệu của quỷ) được vẽ lên các giáo đường Do Thái và rất nhiều nhà thờ, chủ yếu là các giáo đoàn người da đen. Vào ngày 7 tháng 6, Nhà thờ lớn Brethen Baptist tại Gig Harbor đã bị đập phá và có một cây thập tự giá bị đốt cháy ở sân trước. Thông tin ban đầu cho rằng toà nhà đã tự bốc cháy được nhận định là không chính xác. Một người gác cổng và một nhà thuyết giáo (William DuBois và Robinson Estes) chạy ra ngoài và chạm mặt hai nghi phạm. Harper đã nổ súng khai chiến, làm cả hai người họ bị thương. Nhà thuyết giáo đã được xuất viện. Người gác cổng thì vẫn đang nằm trong phòng hồi sức tích cực. Những kẻ đột nhập đã bỏ đi trên một chiếc bán tải màu đỏ Toyota, được đăng ký dưới tên Adam Harper.
Các cơ quan chấp pháp thụ lý vụ án gồm có: Ban An ninh Công cộng Hạt Pierce, phối hợp với Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, sẽ điều tra để phán quyết xem sự việc có phải là một tội ác do thù hằn cấp liên bang không.
Đơn vị trao thưởng và mức thưởng:
- Phần thưởng 1: 50.000 đô la, do Hạt Pierce trao, được bảo lãnh bởi Hội đồng Giáo hội Tây Washington (với phần lớn số tiền được ủng hộ bởi nhà sáng lập MicroEnterprise NA Ed Jasper).
- Phần thưởng 2: 900 đô la, được trao bởi phụ huynh và gia đình của Erick Young.
Lưu ý: Dalton Crowe cũng tham gia săn thưởng.
Dòng thông tin cuối cùng không được thú vị cho lắm.
Crowe là một gã khó ưa tầm bốn chục tuổi. Là cựu quân nhân, gã mở một dịch vụ bảo an ở Bờ Đông, dù nó hoạt động không thành công cho lắm và gã đã phải đóng cửa công ty. Hiện tại, gã đang làm cố vấn an ninh tự do, lính đánh thuê và, hết lần này tới lần khác, thợ săn tiền thưởng. Shaw và Crowe đã có vài lần chạm trán, đôi khi còn xung đột. Họ tiếp cận công việc theo phương cách hoàn toàn khác nhau. Crowe hiếm khi theo đuổi những vụ tìm người mất tích, chỉ lùng sục tội phạm bị truy nã hay tù vượt ngục. Nếu bắn một kẻ đào tẩu bằng vũ khí hợp pháp để tự vệ, bạn vẫn sẽ nhận được phần thưởng và có thể thoát án tù. Đó là cách hành nghề của Crowe, ngược lại hoàn toàn với Shaw.
Shaw đã không dám chắc rằng mình muốn tham gia vào nhiệm vụ này. Một ngày đẹp trời, khi ngồi trên ghế băng ngoài bãi cỏ ở Thung lũng Silicon, anh đang lên kế hoạch thực hiện một việc hoàn toàn khác. Nhiệm vụ thứ hai đó là chuyện riêng, nó liên quan tới cha của anh và một bí mật trong quá khứ – một bí mật mà đã gần như khiến Shaw bị bắn vào khuỷu tay và xương bánh chè bởi một tay sát thủ với cái tên chắc là Ebbitt Droon.
Dù sao thì, nguy cơ tổn hại thân thể – mối nguy có cơ sở – không làm Shaw chùn chân. Anh thực sự muốn theo đuổi cuộc tìm kiếm kho báu bí mật của cha anh.
Tuy nhiên, anh đã quyết định rằng, việc bắt giữ hai tên trẻ trâu Tân Phát xít này, có vũ khí và sẵn sàng nổ súng giết người, cần được ưu tiên hơn.
GPS chỉ hướng cho anh qua những con phố ngoằn ngoèo lồi lõm của Gig Harbor cho tới khi đến được địa chỉ mà anh đang tìm kiếm, một ngôi nhà một tầng thanh thoát, được sơn màu vàng rạng rỡ, tương phản rõ rệt với nền trời âm u. Anh nhìn vào gương và chải mái tóc ngắn vàng hoe đang nằm bẹp sát da đầu. Nó đã rối bù lên sau giấc nghỉ trưa dài 20 phút, khoảng nghỉ ngơi duy nhất của anh trên suốt chặng đường mười giờ lái xe tới đây từ San Francisco.
Đeo chiếc túi laptop lủng lẳng trên vai, anh bước ra khỏi xe và đi tới cửa trước, nhấn chuông.
Larry và Emma Young mở cửa chào đón, anh bước theo hai người vào phòng khách. Anh đoán họ khoảng giữa tứ tuần. Cha của Erick có mái tóc màu nâu xám lưa thưa, mặc chiếc quần kaki màu be và một chiếc áo phông ngắn tay, một màu trắng tinh không tì vết. Ông ấy mới cạo râu nhẵn nhụi. Emma thì mặc một chiếc váy suông kín đáo màu hồng. Shaw có thể thấy được, bà ấy đã trang điểm tươi tắn một chút để đón khách. Những vụ con cái mất tích thường đảo lộn cuộc sống cá nhân, việc tắm rửa và chăm sóc bản thân thường bị bỏ qua. Nhưng ở đây không như thế.
Hai chiếc đèn cao toả những vòng sáng ấm áp xuống quanh căn phòng, những bức tường được dán giấy hình những bông hoa màu vàng và nâu đỏ, sàn nhà được trải thảm màu xanh đậm, bên trên là những tấm thảm phong cách phương Đông của Home Depot hoặc Lowe. Một ngôi nhà xinh xắn. Giản dị.
Một chiếc áo choàng đồng phục màu nâu đặt trên giá treo áo khoác gần cánh cửa. Nó dày, cũ sờn và có bảng tên LARRY được thêu trên ngực. Shaw đoán ông ấy là một thợ máy.
Họ cũng đang nhìn Shaw dò xét: áo khoác thể thao, quần jeans màu đen, áo sơ mi màu nâu có cúc cài ve cổ. Đôi giày lười màu đen. Trang phục này, và các biến thể của nó, là đồng phục của riêng anh.
“Mời anh ngồi xuống,” Larry mở lời.
Shaw chọn một chiếc ghế bành bọc da dày màu đỏ đậm thoải mái, còn đôi vợ chồng ngồi xuống đối diện với anh.
“Hai người đã nghe được bất cứ thông tin nào về Erick kể từ lần trước chúng ta nói chuyện chưa?”
“Chưa, thưa ngài,” Emma Young đáp.
“Thế tin gần nhất từ phía cảnh sát là gì?”
Larry trả lời, “Thằng bé và đứa còn lại, Adam. Chúng vẫn ở quanh vùng thôi. Viên thanh tra, ông ấy cho rằng hai đứa nó đang gom tiền, mượn ai đó, hoặc có thể là ăn trộm…”
“Nó sẽ không làm thế đâu…” Emma nói.
“Đó là điều cảnh sát nói,” Larry giải thích. “Anh chỉ thuật lại những gì họ nói thôi.”
Người mẹ nuốt nước bọt. “Nó… không bao giờ. Ý tôi là, tôi…” Bà ấy lại bắt đầu bật khóc lần nữa. Mắt của bà ấy đã khô nhưng vẫn còn đỏ và sưng húp khi Shaw tới.
Anh lấy ra một cuốn sổ từ trong chiếc túi laptop, cùng với một chiếc bút máy hiệu Delta Titanio Glassia, màu đen với ba vòng màu cam hướng về ngòi. Viết bằng chiếc bút này chẳng phải để khoe khoang hay ra vẻ xa xỉ gì cả. Colter Shaw ghi hàng đống thông tin trong suốt quá trình thực hiện các nhiệm vụ săn thưởng; chiếc bút giúp tay thuận của anh ít mỏi mệt hơn. Đó cũng đơn giản là một niềm thích thú nho nhỏ khi dùng nó.
Lúc này anh đang viết ra ngày tháng và tên của hai vợ chồng. Anh ngước lên nhìn và hỏi chi tiết về cuộc sống của con trai họ. Đang học đại học và có làm thêm. Đang trong kỳ nghỉ hè. Sống ở nhà.
“Erick có bao giờ liên quan tới các băng nhóm về Tân Phát xít hay nhóm cực đoan nào không?”
“Chúa ơi, không,” Larry lầm bầm như thể đã quá mệt mỏi với những câu hỏi như vậy.
“Mọi chuyện thật điên rồ,” Emma nói. “Nó là một thằng bé ngoan. Chà, nó cũng có một chút rắc rối, như bao người khác. Có vướng vào chút ma tuý – ý tôi là, chà, sau tất cả những gì đã xảy ra, thì điều đó có thể hiểu được. Chỉ là thử chút thôi. Nhà trường gọi đến. Không có cảnh sát. Họ đã thông cảm cho việc đó.”
Larry cau mày. “Hạt Pierce? Thủ phủ ma tuý tổng hợp và chất gây nghiện của bang. Anh nên đọc những câu chuyện trên báo. 40% lượng ma tuý tổng hợp ở Washington được điều chế ở đó.”
Shaw gật đầu. “Đó là thứ Erick dùng à?”
“Không, chỉ là một số thứ liên quan tới thuốc giảm đau. Chỉ một thời gian ngắn thôi. Nó phải sử dụng thuốc chống trầm cảm nữa. Vẫn đang dùng.”
“Hai người vừa nói là, ‘sau những gì đã xảy ra’. Sau chuyện gì cơ?”
Họ đưa mắt nhìn nhau. “Anh trai của thằng bé đã mất mười sáu tháng trước.”
“Vì ma tuý à?”
Bàn tay của Emma, đang đặt trên đùi, gần như siết lại thành nắm đấm, vo chặt lớp vải trong những ngón tay. “Không. Nó đang chạy xe, bị một gã say lao vào. Chuyện đó thật sự rất khó khăn với vợ chồng tôi. Nhưng nó đặc biệt khiến Erick choáng váng. Chuyện đó đã thay đổi thằng bé. Chúng thực sự rất thân thiết.”
Anh em mà, Shaw nghĩ, hiểu khá rõ những cảm xúc phức tạp mà một mối quan hệ sinh ra.
Larry nói, “Nhưng thằng bé sẽ không làm bất cứ điều gì gây tổn thương đâu. Không bao giờ nó làm những chuyện xấu xa tồi tệ. Nó chưa bao giờ như thế. Trừ việc với mấy nhà thờ.”
Người vợ cắt ngang, “Thằng bé không làm việc ấy. Anh biết là nó không làm thế mà.”
Shaw nói, “Các nhân chứng nói rằng Adam đã nổ súng bắn trước. Tôi không có thông tin nào về xuất xứ của khẩu súng. Erick có khẩu nào không? Có thể lấy được ở đâu không?”
“Không.”
“Vậy nó là của bạn thằng bé.”
Larry nói, “Bạn? Adam không phải là bạn bè gì cả. Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói về nó.”
Những ngón tay hồng hào của Emma vặn xoắn vạt váy. Một thói quen. “Nó cũng chính là đứa đã gây chuyện với cây thập tự giá, đốt nó. Và những hình vẽ graffiti. Tất cả mọi thứ! Adam đã bắt cóc Erick. Tôi chắc chắn rằng chuyện đó đã xảy ra. Nó có khẩu súng và bắt Erick phải đi cùng. Cướp xe ô tô của nó, trấn lột tiền của nó.”
“Dù sao thì chúng đã dùng xe tải của Adam, không phải xe của Erick.”
“Tôi đã nghĩ về chuyện đó,” người mẹ thốt lên. “Erick đã làm điều dũng cảm và ném chìa khoá xe của nó đi.”
“Thằng bé có tài khoản ngân hàng riêng chứ?”
Người cha đáp lời, “Có.”
Vậy thì hai người sẽ không biết được về việc rút tiền. Cảnh sát có thể thu thập được thông tin đó, những chi nhánh mà thằng bé đã tới. Chắc lúc này họ đã làm thế rồi.
“Hai người có biết thằng bé có bao nhiêu tiền không? Đủ để đi rất xa không?”
“Có lẽ là vài ngàn đô gì đó.”
Shaw đã quan sát căn phòng, xem xét hầu như toàn bộ những bức ảnh hai người con trai của nhà Young. Erick điển trai với mái tóc rậm rối bù màu nâu và nụ cười vô tư. Shaw cũng đã xem bức ảnh của Adam Harper, được đăng lên như một phần của thông báo treo thưởng. Không có tấm nào là ảnh chụp bởi cảnh sát khi bị bắt, dù trong cả hai bức hình trên báo thì cậu ta nhìn vào máy ảnh với sự dè chừng. Người thanh niên gày gò với mái tóc vàng theo kiểu crew cut1 cùng những lọn highlight màu xanh.
Chú thích:
1 Kiểu tóc có hai bên và sau gáy được cắt ngắn bằng tông đơ, phần tóc trên đỉnh đầu để hơi dài một chút. (Tất cả chú thích trong sách là của biên tập viên.)
“Tôi sẽ theo đuổi vụ này, cố gắng tìm ra con trai của hai người.”
Larry nói, “Ôi, vâng. Làm ơn. Anh chẳng giống cái gã to con kia chút nào.”
“Chẳng có một chút xíu cảm tình nào cả,” Emma lầm bầm.
“Dalton Crowe?”
“Đó là tên anh ta. Tôi đã mời anh ta rời đi. Tôi sẽ không trả anh ta bất cứ khoản tiền thưởng nào cả. Anh ta cười và nói tôi có thể giữ nó. Anh ta đang theo đuổi khoản tiền lớn hơn, anh biết đấy… khoản 50.000 đô la mà bang treo thưởng.”
“Anh ta tới đây khi nào?”
“Một vài ngày trước.”
Trong cuốn sổ tay của mình Shaw viết, D.C. tới nhà của người treo thưởng. Mùng 9 tháng 6.
“Giờ, tôi sẽ cho hai người biết tôi sẽ làm như thế nào. Hai người sẽ không tốn đồng nào cho đến khi tôi tìm thấy Erick. Không phí tổn nào. Nếu tôi xác định được vị trí thằng bé, hai người sẽ chỉ nợ tôi khoản 900 đô la đó mà thôi.”
Larry nói đầy tự hào, “Giờ khoản thưởng đã là 1.060 đô la. Một trong số những người anh em họ của tôi đã ủng hộ. Tôi đã mong số tiền sẽ nhiều hơn nhưng…”
“Tôi biết ông muốn tôi đưa thằng bé về nhà với ông. Nhưng đó không phải nhiệm vụ của tôi. Thằng bé là một nghi phạm bỏ trốn và tôi sẽ phạm luật nếu tôi làm thế.”
“Hỗ trợ và hợp tác,” Emma nói. “Tôi có xem hết các chương trình về tội phạm.”
Colter Shaw thường không hay cười nhưng khi gặp những người treo thưởng, anh thi thoảng nhoẻn miệng, để họ cảm thấy an tâm. “Tôi không bắt người. Tôi cung cấp thông tin, chứ không bắt giữ công dân. Nhưng nếu có thể tìm thấy thằng bé, tôi sẽ không cho cảnh sát biết nó ở đâu cho tới khi không có khả năng nó hay bất cứ ai bị hại. Hai người sẽ cần luật sư. Có biết ai không?” Họ nhìn nhau một lần nữa. “Một người bạn đang giúp chúng tôi hoàn tất thủ tục bán nhà,” Larry nói.
“Không. Một luật sư về án hình sự. Tôi sẽ cho vài cái tên.”
“Chúng tôi không có… Ý tôi là, chúng tôi chắc sẽ thu về một khoản tiền sau khi trừ đi thế chấp. Tôi đoán vậy.”
“Hai người sẽ phải làm vậy. Thằng bé cần có một người đại diện tốt.”
Shaw nhìn lại những ghi chú của mình. Chữ viết tay của anh khá nhỏ và từng được miêu tả là như đang nhảy múa, được viết chỉn chu. Cuốn sổ không có dòng kẻ. Shaw cũng không cần sự định hướng nào cả. Mỗi dòng viết đều thẳng tắp một cách hoàn hảo.
Sau đó 20 phút, Shaw tiếp tục đặt ra những câu hỏi và cặp vợ chồng trả lời. Trong suốt tiến trình buổi phỏng vấn, anh nhận thấy rằng họ có quan điểm cứng rắn kiên quyết rằng con trai họ vô tội với thái độ khá khách quan; họ đơn giản không thể nào chấp nhận được rằng đứa con trai mà họ biết lại có thể gây ra tội ác như vậy. Cái ý nghĩ đó khiến họ bối rối. Thủ phạm duy nhất phải là Adam Harper.
Khi cảm thấy mình đã có đủ thông tin, anh đặt cây bút và cuốn sổ xuống, đứng dậy và bước tới cánh cửa. Đôi vợ chồng đã đồng ý gửi bất cứ thông tin mới nào mà họ nghe được từ phía cảnh sát, bạn bè hoặc người thân mà Erick đã liên hệ để mượn tiền hay sự giúp đỡ nào khác.
“Cảm ơn anh,” Emma nói ở bậc thềm, dường như đang do dự không biết có nên ôm anh một chút hay không. Bà ấy không làm như vậy.
Người chồng thì đang nghẹn ngào. Ông ấy lúng búng trên môi định nói điều gì đó và chỉ nắm chặt lấy tay của Shaw. Larry quay vào trong nhà trước khi giọt nước mắt đầu tiên lăn xuống.
Khi bước trở về chiếc Winnebago, Shaw suy nghĩ về một chủ đề mà anh đã không nhắc đến với Emma và Larry: chủ trương của anh về việc không nhận khoản tiền thưởng từ gia đình nếu phát hiện ra rằng đứa con yêu quý của họ đã chết. Chẳng có lý do nào để đề cập tới khả năng đó, dù cho đối với Shaw, khả năng rất lớn rằng đứa con thứ hai của họ sẽ bị sát hại ngay khi Adam biết là chẳng lợi dụng được gì thêm từ thằng bé nữa.