N
guyên Diệp đã chết. Vết thương trí mạng ở lưng, mũi tên đâm thủng tim.
Chuyện Chủ tịch hội đồng quản trị Tập đoàn Nguyên Húc bị hại, đã khơi dậy sóng to gió lớn ở thành phố Z.
Sau khi biết tin, Cố Tiểu Phi giống như một con sư tử phẫn nộ. Anh mời người bạn thân đã không thụ lý những vụ án hình sự từ lâu, luật sư Hứa, Hứa Thực đích thân xuất trận, thu thập nhiều chứng cứ trên nhiều phương diện. Hứa Ninh ra tòa làm chứng chuyện năm xưa Đoàn Kiến Bác bắt giam, đánh mình phi pháp, làm đứt ngón tay, lại ép chết bà nội.
Cuối cùng, Đoàn Kiến Bác đã bị tòa án kết án tử hình với những tội danh: cố ý giết người, bắt cóc, cưỡng hiếp, giam giữ phi pháp, trốn thuế.
Đoàn Kiến Bác không phục phán quyết, kháng án lên tòa án cấp cao. Sau khi tòa án cấp cao thẩm tra xử lý, bãi bỏ kháng án, giữ nguyên phán quyết ban đầu.
Từ tòa án bước ra ngoài, Chúc Dung Dung và Hứa Ninh nhìn nhau, Hứa Ninh bước về phía cô.
“Dung Dung”, cậu gọi.
Chúc Dung Dung nói: “Thì ra Tiểu A Tuấn không phải là con ruột của cậu”.
“Ừm.”
Hứa Ninh nhìn cô, trong mắt mang theo hi vọng.
Bấy giờ, cô không bùi ngùi, mềm lòng trước những gì Hứa Ninh gặp phải trong bốn năm ở Bắc Kinh, cũng không bày tỏ nuối tiếc về chuyện Đào Lạc tự tử. Cô chỉ nói: “Hi vọng từ nay về sau, cậu có thể thuận buồm xuôi gió”.
Cậu nói: “Cậu cũng vậy”.
Hai người nhìn nhau cười, cô ra về trước.
Khi là người bị hại, Chúc Dung Dung tràn đầy lòng thù hận, không đội trời chung với kẻ thù, hiên ngang lẫm liệt thề rằng sẽ khiến Đoàn Kiến Bác phải chết, mỗi ngày đều đầy ắp mục tiêu và sự năng nổ. Đến nay, Đoàn Kiến Bác đã chết rồi, cô bỗng thở phào. Một khoảng thời gian, cô không có hứng thú với ngày tháng, hoa, chim cá,... vạn vật.
Hai năm sau, Chúc Dung Dung mua một căn nhà to hơn, cả gia đình sống cùng nhau. Đi làm, tan làm, giúp mẹ làm cơm, chơi trò chơi với Khang Khang, cho Đoàn Đoàn, Viên Viên đi ngủ, mỗi ngày đều sống như vậy, vừa không nhẹ nhõm, lại không quá mệt mỏi.
Cô đón Sói Xám về nhà, bọn trẻ đều thích nó.
Cuộc sống cứ chảy trôi bình lặng, gặp chuyện vui có thể cười, nhưng không còn khả năng đau buốt tim gan nữa.
Cô thường xuyên nhận được hoa tươi và lời mời chân thành của bạn khác giới. Cô luôn lịch sự nói một tiếng: Xin lỗi, tôi tạm thời không suy nghĩ tới phương diện này.
Cùng với sự nhập tâm vào công việc, cô dần trở nên bận rộn, thường tăng ca tới tận khuya. Buổi sáng bận tới độ không có thời gian chải đầu, nên cô quyết định cắt phăng mái tóc dài. Cô chỉ ngây người vào khoảnh khắc gặm bánh mì xông ra khỏi văn phòng làm việc khi mọi thứ đã chìm vào sắc đêm: Trên con phố lớn người qua lại nườm nượp, nhưng không còn anh nữa.
Bất kể bên ngoài là đêm đen hay mưa dông, không còn người dựa vào xe chờ đợi cô kia nữa.
Cố Tiểu Phi quay trở về thành phố Z. Hai người thường xuyên gặp nhau. Ông bà Chúc coi Cố Tiểu Phi như con rể tương lai, vừa mắt mọi thứ về anh.
Chúc Dung Dung và Cố Tiểu Phi ra ngoài chơi vài lần, Tây Tạng, Cố cung, Trường thành, Ai Cập,… tất cả những nơi thú vị trên thế giới này, họ đều đi một lượt. Chỉ là, biệt thự trên đỉnh núi kia, cô không bước vào nửa bước.
Thi thoảng Cố Tiểu Phi sẽ đùa: “Hay là em đi theo anh đi”. Người thích đùa này, đến theo đuổi phụ nữ cũng không nghiêm chỉnh như thế. Nhưng chính bởi vậy, mà khi Chúc Dung Dung từ chối anh, hai người mới bớt đi những lúng túng không cần thiết.
Sau đó, Cố Tiểu Phi đã thông minh ra, sau khi tỏ tình với cô, anh còn thêm một câu: “Em cứ suy nghĩ trước đi, câu trả lời của em anh không cần gấp lắm”.
Cố Tiểu Phi nói, không nhìn ra em còn là một người chung thủy. Khi nói những lời này, anh đã uống chút rượu, ý rượu nhuộm cho đôi mắt hoa đào xinh đẹp của anh càng thêm dịu dàng. Hai người từ bữa tiệc chúc mừng của bạn bè về, không bắt được xe, nên quyết định đi bộ về nhà.
Mùa đông, gió đêm rít gào. Chúc Dung Dung từ bé đã sợ lạnh, cô vùi đầu vào khăn quàng cổ, không nhìn rõ đường đi. Một chiếc xe tải lớn gần như là đi sát cô, Cố Tiểu Phi kéo lấy cô, sợ tới mức đổ mồ hôi lạnh.
“Cảm ơn anh”, cô nói.
Anh tức giận, trách mắng cô: “Em cẩn thận một chút!”. Hai người đi tiếp, nhưng bàn tay nắm lấy cô lại không buông ra.
Lòng bàn tay anh rất rộng, rất ấm, nhưng cô không quen, cô rút tay ra. Cố Tiểu Phi không cho, động tác của cô ngày càng dứt khoát, cuối cùng có mang theo giận dữ, phân tranh cao thấp cùng anh. Cố Tiểu Phi mượn rượu, cúi đầu hôn cô.
Phản ứng của cô vô cùng mạnh mẽ, có kinh hãi, có cả bài xích. Nhưng cô càng vùng vẫy, thì anh càng không nhân nhượng. Hai cánh môi mềm mại này, anh nhớ rất lâu rồi. Cô dùng toàn sức đẩy anh, anh bỗng kéo cô vào lòng, vừa tức giận vừa thương xót hỏi: “Chúc Dung Dung, em còn muốn đợi đến khi nào nữa? Em định độc thân cả đời sao?”.
Cô lặng thinh, ánh mắt nhìn về nơi xa.
Cố Tiểu Phi sốt sắng nói: “Ý em là gì vậy, em muốn chết vì tình hay sao?”.
Lúc này, cô mới ngẩng đầu lên nhìn anh, dưới ngọn đèn đường, mắt cô mông lung, cô nói: “Em không vĩ đại như thế, không nghĩ nhiều như thế. Em đồng ý với anh, đợi đến khi gặp được đối tượng thích hợp, em sẽ bắt lấy cơ hội”, sau đó cô còn cười.
Bấy giờ, Cố Tiểu Phi im lặng, người đàn ông thường ngày mồm miệng dẻo quẹo này, lần đầu tiên không biết phải nói gì, chỉ “ồ ồ”. Anh chết lặng, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm một tiếng: “Như vậy thì tốt”. Một lát sau, anh lại khôi phục vẻ cười đùa tí tửng, nói: “Không nhìn ra được Tiểu Dung Dung còn là một người chung thủy cơ đấy! Được, anh Tiểu Phi ủng hộ em!”.
Cô đùa: “Ủng hộ em thì nhanh tìm người thu nhận anh đi”.
“Ừm, đợi em lấy chồng, anh sẽ kết hôn!”
Chúc Dung Dung vẫn muốn hỏi một câu, người dùng nước chanh gặp nóng là hiện ra chữ “trốn” ở trên chiếc gương trong nhà tắm năm xưa, rốt cuộc có phải là anh hay không.
Nhưng cuối cùng cô không hỏi, phải hay không phải, có ý nghĩa gì đây.
Lại ba năm nữa qua đi.
Mẹ của đồng nghiệp Lý San mắc bệnh lạ, nghe nói ở một vùng đất linh kiệt trên núi, cầu thần hỏi Phật đều rất linh nghiệm nên mẹ con họ muốn đi thử xem sao.
Lý San trêu đùa: “Dung Dung, đi cùng mẹ con tớ nhé, coi như đi du lịch, còn có thể hỏi về nhân duyên nữa đấy!”.
Chúc Dung Dung bấy giờ đang tránh Cố Tiểu Phi, dù sao cũng rảnh nên cô đồng ý ngay. Cô không ngờ rằng, vùng đất linh kiệt mà Lý San nói, chính là chùa Chiếu Từ.
Khoảnh khắc bước chân lên đỉnh núi kia, chuyện cũ bị cô đóng kín phủ bụi, như nước thủy triều, cuồn cuộn ập đến.
Cả ngày cô ngồi ngơ ngẩn dưới gốc cây trước chỗ ở năm xưa. Lý San tìm cô, hứng chí bổ nhào tới, nói: “Hí, thì ra là cậu trốn ở đây!”.
Đêm qua, trên đỉnh núi trời đổ mưa, cây lá được gột rửa sạch sẽ. Theo động tác của Lý San, hạt mưa thi nhau rơi xuống, ướt đầu và vai cô. Hệt như năm xưa, khi cô chỉnh anh.
Lý San câu trước còn cười hì hì nói: “Sao nào, phong cảnh ở đây đẹp chứ? Tớ không dẫn cậu đi thì cả đời cậu cũng không nhìn thấy đâu”, quay đầu, lại giật bắn mình, “Dung Dung, cậu đang khóc sao?”.
Chúc Dung Dung lấy giấy lau mặt, nói: “Là nước sương”.
Phương trượng của chùa Chiếu Từ đã qua đời vào năm trước, tiểu hòa thượng cũng đã đổi mấy lượt. Một hòa thượng trẻ sau khi tụng kinh xong, chắp tay chào Chúc Dung Dung, hỏi cô: “Nữ thí chủ vẫn khoẻ chứ?”.
Chúc Dung Dung kinh ngạc: “Ngài biết tôi?”.
Hòa thượng nói: “Năm xưa nữ thí chủ tới suối linh tịnh thân, là do bần tăng dẫn đường. Không ngờ nhiều năm sau vẫn có thể gặp lại. Bần tăng rất vui”.
Chúc Dung Dung bừng tỉnh, “ồ” một tiếng. Thì ra, vị hòa thượng này chính là tiểu hòa thượng dẫn họ tới suối linh, cầm trà thơm và tăng y, dễ đỏ mặt năm xưa. Đã bảy tám năm, giữa hai hàng lông mày của tiểu hòa thượng đã lộ ra vẻ trầm ổn.
Hòa thượng niệm một câu: “A Di Đà Phật”, hành lễ xong, bèn rời khỏi.
Ở trong núi một ngày, như trải qua ngàn năm. Ngày thứ ba, cuối cùng họ đã xuống núi.
Thời gian bên ngoài nhanh vun vút, chùa Chiếu Từ không người trùng tu xây dựng, vẫn gìn giữ dáng vẻ cổ kính ban đầu. Khi sắp tới chân núi, phụ nữ nông thôn bán thuốc bán nước đông hơn năm xưa.
Trên đường núi có thêm một con đường dài, tài xế thò đầu ra, nói: “Ở đây không ngờ cũng tắc đường? Phía trước chắc chắn là có vụ tai nạn rồi”.
Lý San đã ngồi không yên từ lâu, lập tức nhảy xuống xe nói: “Tôi đi lên trước hỏi xem sao”, một lát sau, chạy lại nói, “Xuống xe hết đi, phía trước sạt lở, đoán chừng là phải đợi mấy tiếng xe mới qua được. Ôi, đen đủi thật đấy!”.
Thế là mọi người đều xuống xe, con đường núi yên tĩnh bỗng náo nhiệt hẳn lên. Hai tiếng sau, xe cộ phía trước đã thông thoáng, tài xế khởi động xe, hỏi: “Đủ người chưa?”.
Lý San dáo dác nhìn ngang dọc, kinh ngạc nói: “Đợi đã, Chúc Dung Dung vẫn chưa lên xe!”.
Điện thoại không có tín hiệu, mọi người xuống xe tìm những mấy vòng. Lý San sốt sắng đi lại vòng vòng: “Hồi nãy còn nhìn thấy cậu ấy nhìn chằm chằm vào cây mía của người ta ở trước hàng bán rong! Sao chớp mắt cái đã không thấy đâu nữa rồi!”.
Sau lưng núi Chiều Từ rốt cuộc là phong cảnh như thế nào, năm xưa cô đã muốn biết. Thì ra, bên phải đường quốc lộ, có một con đường nhỏ, ngoằn ngoèo vào trong núi. Trên thửa ruộng có mấy con dê núi xám đang kêu be be, trên ruộng lúa trời xanh mây trắng soi bóng, nòng nọc đen ngòm thành đàn, không khí vô cùng trong lành.
Như được soi đường trong bóng tối, bất giác cô đã đi vào tận sâu trong núi. Không có hộ nông dân, không có ruộng đồng, bốn phía là núi hoang, xa xa có thể nhìn thấy hồ nước trong xanh, dưới ánh mặt trời mùa đông, sóng nước lăn tăn.
Đi thêm nửa tiếng nữa, mới tới bên hồ. Một con thuyền dừng trên tảng đá bên bờ, thân thuyền bị một tầng bùn bao phủ, bên trong có mấy bãi phân chim, nước tù đọng vẩn đục.
Đi về phía trước thêm mấy bước nữa, căn nhà sau núi trúc lờ mờ ẩn hiện. Căn nhà được dựng bằng gỗ, tạo hình đơn giản, trên đỉnh có ngói, bên cạnh có chuồng gia súc. Hàng rào trúc bị gió mưa ăn mòn lung lay sắp đổ. Có thể thấy ở đây đã bỏ hoang nhiều năm, không có người ở.
Chúc Dung Dung bước qua hàng rào, con đường đá bên trong đã phủ đầy rêu. Hai bên cửa gỗ có đôi câu đối được viết bằng bút lông - Núi sông đóng giữ năm tháng lạnh, đông hạ ngủ vùi đợi người đến thăm.
Nét bút phóng khoáng, hào hùng, mạnh mẽ, đanh thép, nhìn thấy chữ như nhìn thấy người.
Trên góc tường rách tả tơi, có đặt hai chậu hoa ngay ngắn. Trong chậu hoa, ban đầu có lẽ là trồng một số cây hoa cỏ, đến nay chỉ còn lại đống củi đen, chìm dưới đáy chậu.
Trên cửa gỗ có treo một chùm chìa khóa bằng đồng, khóe mắt Chúc Dung Dung ầng ậc nước, nhìn chằm chằm một hồi lâu. Cuối cùng, cô bước lên bậc, chìa tay ra lục tìm dưới đáy chậu hoa thứ ba bên trái, quả nhiên đã lấy được một chiếc chìa khóa hoen rỉ.
Cô lau khô nước mắt, mở cửa bước vào phòng. Đồ dùng bên trong đơn giản, nhưng đầy đủ. Tủ quần áo, chum, chậu sắt, giá gỗ. Một cánh cửa sổ bên giường, đẩy ra nhìn, trên hồ nước xanh biếc bên ngoài cửa sổ, một đôi cò trắng đương cất cánh bay cao.
Trong nhà không có người ở, bụi đất phủ đầy nền, tơ nhện giăng trên đầu. Đường điện có lẽ đã hỏng, bóng đèn điện trên đầu tối thui.
…
“Tới lúc đó dựng một căn nhà gỗ ở bên hồ, không dùng điều hòa làm ấm gì cả, trồng rau, tự cung cấp cho mình, nuôi hai con dê.”
Cô phối hợp với anh: “Một con dê đực, một con dê cái, một con dê trắng, một con dê đen, còn có thể uống sữa dê nữa!”.
“Làm một con thuyền nhỏ, mỗi ngày mang rượu lên thuyền ngồi câu cá, không dùng điện thoại, quên hết tháng với ngày.”
Cô vỗ tay: “Woa, tuyệt quá! Tuyệt quá! Em muốn đi!”
Anh nói, giọng biếng lười: “Anh sẽ không mở cửa cho em đâu”.
“Hứ!”
Anh vỗ vỗ khuôn mặt tức giận phụng phịu của cô: “Chìa khóa ở dưới chậu hoa thứ ba bên trái cánh cửa”.
...
Chúc Dung Dung dụi mắt, bỗng nhìn thấy trên bàn gỗ có cốc nước đè lên một bức thư. Nét bút bên trên vừa quen thuộc vừa thân thiết, viết ba chữ lớn - Gửi vợ yêu.
Một bức thư có ba trang lớn, ghi chép tỉ mỉ từng chút khi quen cô biết cô, lộ trình tâm lý trong mỗi giai đoạn, vật lộn rồi buông bỏ rồi giành lấy, từ nét bút uyển chuyển của anh, thuật lại một không gian cô chưa từng biết đến. Trong thư có nỗi nhớ nhung và yêu thương gửi gắm cho cô, nhưng phần lớn là nỗi ân hận, ân hận về những tổn thương gây ra cho cô trong suốt những năm qua.
Ngày tháng sau chữ ký, vừa khéo là một tuần trước khi anh qua đời. Những lời nói này, với tính cách của anh, anh sẽ không bao giờ nói ra, nên anh dùng giấy bút ghi lại. Thế nhưng, cô chưa kịp nhìn thấy, thì anh đã an giấc ngàn thu vì cứu cô.
Chúc Dung Dung trèo lên chiếc giường gỗ bên cửa sổ, cuộn người lại. Giống như một người phụ nữ mặt mày tươi tắn, nằm trong chiếc quan tài bỏ đi đầy tro bụi. Cô nhắm mắt lại, nước mắt tuôn rơi. Sự cứng cỏi và kìm nén của cô mấy năm nay, đã sụp đổ vào khoảnh khắc ấy.
Cô quá đỗi nhớ anh, nhớ tới nỗi không thể chịu nổi sự thúc giục của thời gian.
Cuối cùng, cô đã buông thả mình, gọi tên anh trong nỗi nhớ nhung khôn nguôi.
A Diệp, A Diệp.
Khi khủng hoảng tài chính cận kề, mô thức kinh doanh bảo thủ truyền thống của ông Chúc ngược lại đã khiến công ty kiếm được một khoản tiền nhỏ. Bà Chúc bắt đầu trù hoạch cho cả gia đình di cư sang Úc, kế hoạch này cuối cùng đã được thực thi sau ba năm.
Ở thị trấn nhỏ bên biển ở Brisbane gần Thái Bình Dương, đất rộng người thưa, bầu không khí trong lành, khí hậu ôn hòa, nhịp điệu cuộc sống thong thả, vô cùng thích hợp để định cư. Ông bà Chúc thoạt đầu bị trở ngại về mặt ngôn ngữ, cuộc sống có phần khó khăn. Nhưng người nhà họ Chúc trời sinh lạc quan, tích cực, khả năng thích nghi mạnh, cho nên sau một năm, bà Chúc đã có thể khiêu vũ nhiệt tình, cởi mở khi nướng thịt cùng hàng xóm.
Úc giống như công viên động vật hoang dã tự nhiên, được bọn trẻ vô cùng yêu thích. Chẳng mấy chốc, ba đứa trẻ đã có thể giao tiếp cùng đám nhỏ địa phương bằng giọng Anh kiểu Úc chính cống.
Ở Úc 30 năm, Chúc Dung Dung chỉ về nước hai lần.
Lần đầu tiên là năm cô ba mươi mốt tuổi, Hứa Ninh kết hôn, cô nhận được lời mời tới dự.
Sau khi Tôn Việt Hàm lâm bệnh nặng, Hứa Ninh nghe theo sắp xếp của mẹ, kết hôn với con gái của một nhà kinh doanh người Hàn Quốc. Cô gái kia dịu dàng, đức hạnh, tôn trọng người già, yêu trẻ nhỏ, người từng nhìn thấy cô đều sẽ không bủn xỉn lời khen dành cho cô.
Hôm Hứa Ninh tổ chức lễ cưới, chuyến bay từ Hồng Kông tới thành phố X của Chúc Dung Dung khởi hành muộn, khi cô tới nơi, hôn lễ đã tiến hành tới cao trào.
Trong giáo đường thiêng liêng, chú rể đang định hôn cô dâu, Chúc Dung Dung đẩy cửa bước vào, khom lưng lẳng lặng ngồi ở góc ở hàng ghế sau cùng. Nhưng Hứa Ninh vẫn phát hiện ra cô.
Cậu nhìn về phía cô, nhìn chăm chú nửa phút. Hai người họ cách nhau một khoảng xa, cô không nhìn thấy ánh mắt của cậu. Chỉ cảm thấy ánh mắt chăm chú đó không đổi, cô quay mặt đi, không nhìn cậu nữa.
Đại Sở và Vạn Thủy cũng có mặt, còn mang theo con gái của họ. Cô bé chừng năm sáu tuổi, vô cùng đáng yêu, đôi mắt giống cha, miệng mũi giống mẹ. Hai người họ khi kết hôn chẳng có gì, nhưng dù ngày tháng khó khăn, họ cũng đã sinh con, trải qua từng ngày một cách suôn sẻ.
Ba người tụ họp cảm khái không thôi.
Trong tiệc cưới, chú rể đi kính rượu từng vị khách, khi tới bàn của Chúc Dung Dung, cậu thay nước khoáng thành rượu trắng, uống liền ba cốc.
Khi Chúc Dung Dung ở Úc, cô thường xuyên trò chuyện qua điện thoại với Cố Tiểu Phi, thường xuyên tới nỗi mỗi tuần phải nói chuyện với nhau một lần. Họ nói về mọi chủ đề. Cố Tiểu Phi còn đặc biệt tới Brisbane thăm Chúc Dung Dung vài lần, hai người thân thiết ôm nhau, nhưng từ đầu tới cuối vẫn không tiến được xa hơn.
Nếu lòng không ôm mục tiêu, tốc độ chảy trôi của thời gian sẽ là chớp mắt. Chúc Dung Dung tới Úc đã tròn ba mươi năm. Trong lúc đó, cha mẹ lần lượt qua đời, con cái đã trưởng thành, xây dựng gia đình. Khang Khang đã cưới một cô vợ da trắng, sinh ba đứa con lai, đứa nào cũng xinh đẹp cả. Viên Viên cũng đã kết hôn, sinh cho Chúc Dung Dung một đứa cháu ngoại xinh xắn. Chúc Dung Dung rất vui.
Cô cháu ngoại mắt ngọc mày ngài, giống Chúc Dung Dung hồi nhỏ sáu bảy phần. Bấy giờ, Chúc Dung Dung cũng đã là bà già tóc bạc đầy đầu, răng đã rụng, khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn. Nhìn dáng vẻ hiện tại của cô, không ai tin rằng, cô cũng từng vô cùng xinh đẹp một thời.
Sau khi Chúc Dung Dung nghỉ hưu, chuyện cô thích làm nhất, chính là kể chuyện trong quá khứ cho cháu ngoại nghe, kể ông ngoại Nguyên Diệp từng cứu cô ba lần, cao lớn uy vũ, là anh hùng ngạo nghễ trong lòng cô. Cô cháu ngoại còn rất thích nghe, lúc nào cũng hỏi, sau đó thì sao, sau đó thì sao.
“Sau đó ông và bà ngoại đã chia tách.”
“ Ông đi đâu ạ?”
“Một nơi rất đẹp, đợi bà ngoại đến.” Cô cháu ngoại như hiểu như không.
Một khoảng thời gian, cô không trò chuyện qua điện thoại với Cố Tiểu Phi nữa, từ ngày qua 75 tuổi, hai người đã bắt đầu duy trì sự ăn ý, cuộc điện thoại gọi cho đối phương ngày càng ít. Ngày hôm ấy ở Brisbane, thời tiết rất đẹp, gió biển thổi chầm chậm. Chúc Dung Dung ngồi trên ghế dài dưới cây dừa, nhìn ánh chiều tà lặn xuống biển, bỗng nhớ anh.
Thế là cô gọi điện thoại cho anh.
Là một người lạ nghe máy, nói là hàng xóm của Cố Tiểu Phi, bảo rằng Cố Tiểu Phi đã qua đời vào buổi trưa.
Tay Chúc Dung Dung run rẩy, điện thoại rơi xuống cát. Nhưng cô vẫn duy trì tư thế nghe điện thoại ấy, một hồi lâu sau, cô mới nói vài tiếng với không khí: “Ồ, ồ, tôi biết rồi”.
Cố Tiểu Phi đã qua đời, hưởng thọ 78 tuổi, cả đời không lập gia đình.
Hồi còn trẻ, Cố Tiểu Phi là một người thích cười, cả ngày hi hi ha ha không nghiêm túc. Chính người đàn ông linh tinh lang tang như thế này, lại nói với cô rằng: “Đợi em lấy chồng trước, rồi anh sẽ kết hôn”. Bấy giờ, cô chỉ coi như anh nói đùa.
Mắt của con người mọc ở phía trước, ánh mắt cũng luôn hướng về phía trước. Cho nên, người lẳng lặng hy sinh ở phía sau, bất kể thế nào đều không nhìn thấy. Cho dù có ngày nhìn thấy rồi, thì bản thân cũng đã trên con đường một chiều trong tình yêu, chẳng thể quay đầu được nữa.
Nửa cuối năm, Chúc Dung Dung bị ốm nặng. Sau khi chữa khỏi, sức khỏe ngày một yếu đi.
Mấy năm sau, cô cảm thấy mình đã sắp trút hơi thở cuối cùng. Cả ngày cô chỉ vào một địa điểm, nói với con cháu rằng, sau khi mình chết, phải đi tới nơi này.
Mọi người làm theo nguyện vọng của người già, vào lúc hấp hối, đã đưa cô tới một căn nhà nhỏ bằng gỗ tồi tàn dưới núi Chiếu Từ. Ngôi nhà bị bỏ hoang nửa thế kỷ, ngói trên nóc đã bị người địa phương lấy đi hơn nửa, cột kèo, đòn tay trong nhà cũng đã mục nát.
Chúc Dung Dung đuổi con cháu ra ngoài. Con cháu không nỡ, khóc rấm rứt, Chúc Dung Dung cất giọng hiền từ:
“Ba mươi lăm năm nay, ta chưa từng an lòng như thế này. Các con đi đi”.
Cửa được đóng lại, tiếng khóc của con cháu mỗi lúc một xa, tới cuối cùng vạn vật chìm vào tĩnh lặng.
Cô nằm trên giường, bức thư đã ngả vàng kia được đặt ngay ngắn trước ngực, những chữ bên trên cả đời này cô đã đọc hàng trăm nghìn lần.
Cô hồi tưởng lại lần cuối cùng trong đời này, anh nói - gửi vợ yêu.
Ánh nắng từ mái nhà hở một nửa rọi xuống, vừa khéo chiếu lên người cô, cô nhắm mắt lại, vẻ mặt chưa từng an tĩnh như bây giờ.
Một lần nữa mở mắt ra, cử động sống lưng và gáy đã cứng đờ, cô ngẩng đầu lên, phát hiện mình đang bò ra bàn. Ánh nắng chiếu qua thanh cửa sổ vàng nhạt rọi vào trong, cô nheo mắt lại.
Bốn bề là tiếng soàn soạt, đám nhỏ mặc đồng phục màu lam trắng đang vùi đầu vào giải đề. Cô Hồ ngồi trên bục giảng, buồn chán ngoáy mũi. Cô gái ngồi bên cạnh rất quen mắt, là Tần Vạn Thủy.
Như vô số lần trong mơ, thời học sinh trong giấc mơ chính là dáng vẻ này. Nhưng cảnh này vô cùng chân thực.
Cô chìa tay ra xem, làn da mịn màng, nhẵn nhụi, năm ngón tay thon dài. Cô sờ lên mặt mình, vừa mềm mịn vừa nhẵn bóng, căng tràn collagen!
Cô lại lật xem cuốn sách giáo khoa, cô vẫn nhớ mang máng về cuốn sách tiếng Anh, trên sách có viết “Chúc Dung Dung, lớp 12/2”.
Cô chầm chậm đứng dậy, ngẩn người nhìn mọi thứ, gương mặt hoảng sợ và khó tin.
Cả lớp quay đầu lại, có người nhân cơ hội thì thầm to nhỏ, có người chau mày mất kiên nhẫn vì bị quấy rầy.
Cô Hồ uể oải quát: “Chúc Dung Dung, vừa rồi em ngủ gật, không ảnh hưởng tới các bạn tôi đã nhịn rồi, sao nào, giờ còn mộng du nữa à?!”.
Chúc Dung Dung mở trừng mắt như chuông đồng, ngớ ra hồi lâu không nói nên lời. Cô lại nhìn một lượt từng gương mặt với đủ mọi hình thái, biểu cảm: Trương Tiểu Hào, phía trước, Văn Quang Hoa… đều là bạn học cấp ba, cô nhớ cả. Lúc này cô nhìn họ bằng ánh mắt không dám tin, họ cũng nhìn cô hả hê trên nỗi đau khổ của người khác.
Chuyện gì thế này?
Cô Hồ bước xuống, chế giễu: “Sao vậy, ngủ tới mức không biết trời đất gì nữa rồi? Làm xong bài thi chưa?” Cô cầm bài của Chúc Dung Dung lên nhìn, chỉ viết có tên họ. Cô quẳng giấy thi vào mặt Chúc Dung Dung, “Không viết được chữ nào! Có phải là em đã vứt bỏ cái tôi rồi không?”.
Chúc Dung Dung bỗng mở miệng, nói với người bên cạnh: “Vạn Thủy, Hứa Ninh đâu rồi?”.
Tần Vạn Thủy kéo góc áo Chúc Dung Dung, nhỏ giọng, bối rối nói: “Dung Dung, Hứa Ninh nào! Mau ngồi xuống đi!”.
Chúc Dung Dung nghi ngờ, nói: “Cậu không biết Hứa Ninh sao?”.
Vạn Thủy hỏi: “Lớp nào?”.
Chúc Dung Dung kiên nhẫn giải thích: “Cái cậu học giỏi lớp chúng ta, Hứa Ninh cùng bàn với tớ, mỗi lần thi đều xếp thứ nhất ấy!”.
Tần Vạn Thủy nhìn cô một hồi lâu, nói: “Cậu nằm mơ giữa ban ngày hả!”.
Chúc Dung Dung thừ người, vẫn là dáng vẻ ngốc nghếch không dám tin. Cô bỗng nhéo một cái thật đau lên cánh tay mình, đau thấu tận tim. Không phải là ảo giác, là thật!
Thước dạy học của cô Hồ đã chìa tới trước mặt cô: “Chúc Dung Dung, em đúng thật là càng ngày càng coi trời bằng vung rồi! Em nói xem, có phải là em có ý kiến gì với tôi không…”.
Cô Hồ còn chưa dứt lời đã dừng lại, bởi vì cô phát hiện thấy Chúc Dung Dung cơ bản không nghe mình nói.
Bấy giờ dưới thước dạy của cô giáo, dưới sự chăm chú của toàn thể lớp học, Chúc Dung Dung dè dặt đẩy bàn học ra, đứng dậy. Cô vịn vào ghế thử bước một bước… lại bước một bước nữa, có vẻ tin rằng mình có thể bước đi vững vàng mà không cần vịn tường. Sau khi bước được mấy bước, cô còn nhảy lên, lộ ra vẻ vui mừng không dám tin. Sau đó, cô quay đầu, dùng giọng Anh kiểu Úc chính cống để nói với cô Hồ: “Em yêu cô, yêu tất thảy những gì cô có, bao gồm cả thước dạy học của cô!”.
Mắt cô Hồ sắp lồi ra ngoài tới nơi: “Chúc Dung Dung, em… uống nhầm thuốc rồi? Em còn ảnh hưởng tới kỷ luật lớp học, thì cút tới góc nhà vệ sinh đứng đi nhé!”.
Chúc Dung Dung không rên một tiếng, đi ra phía sau, cô Hồ khẽ ho một tiếng, nói: “Thôi bỏ đi, xem như em biết sai biết sửa, quay về chỗ làm bài đi”.
Nhưng Chúc Dung Dung không dừng bước, trước mặt toàn thể lớp, cô bước ra khỏi phòng học. Cô Hồ không nén được cơn giận, đanh giọng quát: “Chúc Dung Dung, em muốn tạo phản sao? Quay lại!”.
Chúc Dung Dung không những không quay lại, mà còn co giò chạy, nhanh như một con chim.
Chúc Dung Dung chạy ra khỏi lớp học.
Mọi thứ bên ngoài quả đúng như mấy chục năm về trước trong ký ức. Trời xanh mây xa, sông nhỏ chưa bị vùi lấp, tòa nhà cao tầng chưa mọc lên, phía xa vẫn còn nhiều ngôi nhà thấp lát gạch xanh.
Chúc Dung Dung chạy một mạch về nhà, cảm giác có thể chạy nhảy thật tuyệt.
Nhà của Hứa Ninh ở tầng một lại là một gian hàng bán quà vặt, cô bước vào, gọi: “Hứa Ninh?”.
Nửa phút sau, cô lùi ra ngoài trước ánh mắt sửng sốt của bà chủ quầy. Cô lại chạy về nhà, bố vẫn chưa đi làm về, mẹ đang chuẩn bị bữa tối. Cô không nói lời nào, bước lên trước ôm chầm lấy mẹ: “Mẹ, con nhớ mẹ lắm”, cô vùi đầu vào cổ mẹ.
Hình ảnh mẹ qua đời ở kiếp trước cô vẫn nhớ như in, cô hoảng sợ nhắm mắt lại, ôm mẹ càng chặt hơn.
Bà Chúc ngẩn người, đẩy cô ra: “Con bé này, làm sao vậy?”, kinh ngạc hỏi, “Hôm nay sao lại tan học sớm thế này?” Chúc Dung Dung không để tâm tới lời mẹ hỏi, hỏi lại, “Mẹ, gia sư dạy đàn cho con sống ở đâu ạ?”.
Bà Chúc trừng mắt với cô: “Gia sư nào! Nói tới đàn dương cầm, chiếc dương cầm kia của con bày ở đó mười năm không động, đã thành ổ chuột rồi, ngày mai con lau bụi đi!”.
Chúc Dung Dung lẩm bẩm: “Không có Hứa Ninh? Sao lại thế được nhỉ?”, cô nói với mẹ, “Mẹ, con ra ngoài một chút”.
Bà Chúc ù ù cạc cạc trước hành động bất thường của con gái, đuổi theo giáo huấn: “Con bé chết tiệt! Đi đâu đấy? Không ôn luyện sao? Sắp thi đại học đến nơi rồi!”.
Chúc Dung Dung chạy tới cửa, bỗng quay đầu lại nói với mẹ: “Mẹ, có phải là mẹ mang thai rồi không?”.
Bà Chúc kinh ngạc, bà và chồng định không nói chuyện này cho bất cứ ai, có mang thai hay không đến ngay cả bà cũng không chắc chắn, bà kinh ngạc hỏi: “Con gái… con… sao con biết?”.
Lời tiếp theo của con gái càng khiến bà ngạc nhiên hơn, cô con gái nói như đinh đóng cột: “Không cần phải đi siêu âm đâu, mẹ mang bầu con trai, nhưng sinh ra phải cẩn thận với chứng tan máu, tốt nhất là bây giờ nên liên lạc với vài người có nhóm máu RH âm tính đi ạ”.
“Con gái… con”.
Chúc Dung Dung xúc động, quay về, ôm chặt lấy mẹ, chân thành nói: “Mẹ, con yêu mẹ và bố, cũng yêu em trai, rất yêu!”, rồi xông ra ngoài cửa.
Bà Chúc giơ nồi lên, một hồi lâu chưa bình tĩnh lại.
Trên người Chúc Dung Dung có ít tiền, cô vẫy chiếc taxi, ngồi vào xe xong bèn nóng lòng nói với tài xế: “Chú ơi, cháu đến Phong Nguyệt Trủng ở núi Minh Văn”.
“Cô gái à, trên núi Minh Văn làm gì có Phong Nguyệt Trủng?”, ngẫm nghĩ, “Nhưng trên đỉnh núi có nơi tên là Phong Nguyệt Phủ. Nhưng đó là nơi người có tiền sống, người thường chúng ta không vào được đâu”.
Chúc Dung Dung sững lại, vội vàng nói: “Chính là Phong Nguyệt Phủ! Chú mau dẫn cháu đi!”.
Tài xế liếc nhìn cô từ gương chiếu hậu, có vẻ không tin cô gái như thế này có thể có quan hệ với những người có tiền kia.
Chiếc xe chạy băng băng. Tới khu bảo vệ lưng chừng núi, chiếc xe quả nhiên bị chặn lại. Chúc Dung Dung nói với bảo vệ: “Anh trai, tôi biết ngài Nguyên ở Phong Nguyệt Phủ, xin mở cửa cho tôi vào, tôi tìm anh ấy có chuyện gấp!”.
Bảo vệ liếc cô, vẻ ngoài cung kính: “Cô gái, cô họ gì, có hẹn trước với ngài Nguyên không?”.
“Tôi họ Chúc… hẹn trước?”, cô nghẹn lời.
Chính vào lúc này, phía sau truyền đến tiếng bíp còi, một chiếc xe xa xỉ màu rượu vang bị kẹt ở phía sau.
Bảo vệ lập tức chạy tới, đứng thẳng, hành lễ với người trong xe, sau đó chỉ vào chiếc xe của Chúc Dung Dung nói gì đó.
Một lát sau, bảo vệ lại chạy tới, nói: “Họ bảo cô qua, có việc muốn hỏi cô”.
Chúc Dung Dung rối rít cảm ơn, trả tiền xe, xuống xe qua đó, trong lòng căng thẳng, vừa muốn nhìn thấy anh, lại sợ nhìn thấy anh.
Cửa sổ xe màu đen được hạ xuống một nửa, trên ghế ngồi phía sau là một người phụ nữ khoan thai, xinh đẹp, giàu có. Bà cuộn cửa sổ xe xuống, bỏ kính râm ra, hỏi: “Cô gái, cô tìm ai?”.
Không ngờ là Tôn Việt Hàm! Bà không bị hủy hoại dung nhan, vẫn sống ở Phong Nguyệt Phủ. Cách nói chuyện của bà tao nhã, quý phái.
Chúc Dung Dung che miệng kinh hãi.
“Cô gái nhỏ?”
“Bà là... Bà là mẹ của Hứa Ninh?”, cô hỏi.
Tôn Việt Hàm lại liếc mắt với cô, cuộn cửa sổ lên, nói một câu: “Lão Phó, lái xe, xem ra là nhận nhầm người rồi”.
Người có tiền, đều mang tâm lý cảnh giác với người lạ. Chúc Dung Dung hốt hoảng, kéo cửa xe gọi: “Lão Phó! Đợi đã! Tôi biết ông”.
Lão Phó cười ha hả: “Em gái nhỏ, lần sau nhớ thêu dệt lời nói dối cho hay một tý rồi hẵng tới nhé”, dứt lời bèn lái xe đi.
Chúc Dung Dung ở Phong Nguyệt Trủng bốn năm, chưa từng nghe lão Phó mở miệng nói chuyện, giờ kinh ngạc nói: “Lão Phó, ông có thể nói chuyện rồi?”.
Lão Phó lại cười thầm, trong lòng khó hiểu, kẻ lừa đảo này không khiến người ta phản cảm.
Bây giờ Chúc Dung Dung mới phát hiện thấy bên ghế phụ còn có một người nữa. Cô cúi người nhìn, suýt chút nữa thì bật khóc vì vui mừng, chàng thiếu niên mặt không biểu cảm bên trong kia, chính là Hứa Ninh.
Cô vòng qua trước xe, vội vã đập cửa sổ xe bên ghế phụ: “Hứa Ninh! Hãy nói cho tớ biết Nguyên Diệp ở đâu! Tớ muốn tìm anh ấy!”.
Cậu cứ để mặc cô gọi, bởi cậu không quen cô, nên chẳng thèm ngó ngàng.
Lan can phía trước được nâng lên, chiếc xe xa xỉ dửng dưng lướt qua người Chúc Dung Dung. Cô nhìn chiếc xe đi xa, đứng tại chỗ ngơ ngẩn một hồi.
Chiếc taxi kia đã đi, trên lưng chừng núi này, muốn đi xuống núi ít nhất phải mất một tiếng. Nhưng cô không thấy thất vọng gì, mà ngược lại, cả người cô đều trào dâng cảm xúc mãnh liệt!
Cô bắt đầu đi xuống núi, đi được hai bước lại bắt đầu chạy như bay. Cô quá yêu cảm giác chạy nhảy.
Mọi người đều có mặt, mọi người đều tốt, Tôn Việt Hàm không vứt bỏ gia đình, con cái, Hứa Ninh ở cùng với cha mẹ đẻ. Nguyên Diệp vẫn còn sống, cô cũng đang ở tuổi thanh xuân sung sức. Cuộc đời như thế này, tương lai đầy ắp hi vọng như thế này, khiến cô cầm lòng chẳng đặng mà muốn khóc, muốn cười.
Lúc này, phía sau truyền đến tiếng nói của một người đàn ông vừa vỡ giọng, còn chưa được trầm ổn lắm: “Này”, là Hứa Ninh.
Cô đứng lại, quay đầu nhìn cậu.
Chiếc xe xa hoa màu rượu vang kia dừng trong phạm vi tầm nhìn của cô, bật đèn chờ đợi. Một mình cậu bước tới, mặc quần áo thoải mái, hai tay thọc túi, tóc ngắn, đôi mắt trong trẻo, tuấn tú, vẻ mặt kiêu ngạo của cậu lúc này, không khác gì chàng thiếu niên nói “không thi đỗ thì tuyệt giao” trong trí nhớ kia.
Chúc Dung Dung mắt lấp lánh nhìn cậu.
Biểu cảm của cậu không gợn sóng, giọng nói cũng không trầm không bổng, cậu bình tĩnh hỏi: “Cậu tìm anh trai tôi có chuyện gì?”.
Cô không biết bắt đầu từ đâu, chỉ nói hàm hồ: “Chuyện rất quan trọng”.
Cậu nhìn cô hồi lâu, cuối cùng mở miệng: “Anh ấy ở Nguyên Dạ”.
Chúc Dung Dung cười nói: “Cảm ơn cậu! Hứa Ninh!”. Cậu không nói gì, chỉ nhìn cô. Chúc Dung Dung vẫy tay, cất bước chạy.
Vài giây sau, đằng sau truyền đến giọng nói của cậu: “Tôi không phải là Hứa Ninh, tôi là Nguyên Khởi”.
Cô đi thụt lùi, cười vẫy tay với cậu. Nụ cười của thiếu nữ đong đầy sức cảm hóa, cậu chưa từng nói chuyện với người lạ, nhưng lúc ấy, cậu lại không kìm nổi lòng mà chủ động nói cho cô biết tên của mình. Cậu lấy làm ngạc nhiên.
Tới cửa lớn Nguyên Dạ, đã chín giờ tối. Cô gái đón khách phong tình vạn chủng đương nhiên không cho cô vào, bất đắc dĩ, đành phải đứng ở cửa.
Nhìn thời tiết và cách ăn vận của mọi người, lúc này có lẽ là đầu tháng ba, đêm, gió lạnh rì rào. Cô ôm đầu gối cuộn mình trên luống hoa bên cạnh, đôi mắt tròn long lanh có thần, nhìn chằm chằm vào cửa Nguyên Dạ. Gió lạnh thấu xương, nhưng lòng nhiệt tình lại phun trào, lan tới lục phủ ngũ tạng, tứ chi và xương cốt.
Đoàn người ra ra vào vào, cô không nản lòng, thời gian càng lùi về sau, cảm xúc trong cô càng mãnh liệt.
A Diệp, em sắp gặp được anh rồi.
Mười một rưỡi đêm, một nhóm nam nữ từ cửa Nguyên Dạ nối nhau ra ngoài, có một người đàn ông đi giữa mấy người đàn ông khác, cao to anh tuấn, mặc đồ Âu thoải mái, đôi chân thon dài, giày da sáng loáng. Đôi mắt đẹp hơn phụ nữ, dịu dàng, cằm cương nghị, đôi môi mỏng. Anh nói chuyện với người phía trước, gương mặt phảng phất ý cười.
Chúc Dung Dung đứng dậy. Anh tới rồi!
Một người trung niên khoảng bốn mươi tuổi quay đầu hỏi: “Đúng rồi, Nguyên tổng tuổi trẻ tài cao, đã có bạn gái chưa?”.
Nguyên Diệp tính khí tốt nổi tiếng trong giới, anh khiêm tốn cười nói: “Đàn ông nên lấy sự nghiệp làm trọng trước, tạm thời tôi vẫn chưa có bạn gái”.
Vừa nói xong, thì một cô gái tóc xoăn, mang theo gió và nắng, né khỏi bốn vệ sĩ được đặc huấn bên anh, bổ nhào vào lòng anh.
Cô gái siết chặt anh trong vòng tay, không biết là do sợ hãi hay kích động, cả người run lẩy bẩy.
“Cô gái”, Nguyên Diệp lúng túng, khẽ ho một tiếng, đẩy cô ra, nói, “Có phải là cô nhận nhầm…”.
Còn chưa dứt lời, cô lại dán vào người anh, ngày càng chặt hơn.
Cô không nói, cô đã không thể thốt nên lời.
Mái tóc xoăn mềm mượt như nhung không ngừng cọ vào lòng anh, nước mắt nước mũi chảy tèm lem, lồng ngực phập phồng, hai tay khóa lại sau lưng anh, càng ngày càng chặt. Tựa như chỉ thả lỏng một chút thôi, là sẽ khiến cô phải ôm hận cả đời vậy.
“Này, cô gái?”
Chúc Dung Dung từ từ buông anh ra, ngẩng đầu nhìn anh nửa phút, ánh mắt thâm tình. Anh toan nói, thì cô lại bổ nhào vào lòng anh, ôm càng chặt hơn.
Cô giống như khối P gặp khối hút sắt N, anh càng kéo cô, thì cô càng ôm anh chặt hơn. Cô không lên tiếng, hờn dỗi phân tranh, anh có thể cảm nhận được cô không ngừng run rẩy.
Nguyên Diệp bối rối vô cùng, phụ nữ theo đuổi anh không phải là không có, nhưng người không biết xấu hổ như thế này thì là lần đầu. Anh nháy mắt ra hiệu cho vệ sĩ trước mặt mình. Vệ sĩ lập tức lên trước kéo Chúc Dung Dung ra.
Giờ mọi người mới biết, cô gái này đang khóc như mưa. Cô lẩm bẩm: “Em nhớ anh lắm, mỗi ngày mỗi phút mỗi giây em đều nhớ anh! Sống ở Phong Nguyệt Trủng hay nhà gỗ đều được, phương diện kia của anh có bệnh hay không em cũng không để tâm! Em chỉ cần anh ở bên em!”, dứt lời, nhớ đến sự tủi thân mất anh nhiều năm, cô bỗng gào khóc. Trong lòng cô vừa mừng vừa sợ, mừng là không ngờ còn có ngày này, sợ là, ngày mai tỉnh lại, anh có biến mất hay không.
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tổng giám đốc Trương chỉ vào cô gái khóc đến đứt ruột đứt gan, ngơ ngẩn hỏi: “Chuyện này… chuyện này…”.
Vệ sĩ cho tay ra đằng sau khóa cánh tay Chúc Dung Dung lại, ánh mắt nhìn trộm ông chủ vô cùng quái dị.
Nguyên Diệp tính tình có tốt thế nào đi chăng nữa, thì lúc này mặt mũi cũng đen kịt, anh nhìn thẳng vào cô, cuối cùng giận quá hóa cười: “Có tật hay không cô đều không để tâm? Những lời tỏ tình độc đáo khác người này thực khiến tôi cảm động”.