Chính lúc đó lại xuất hiện một nhân vật mới, tham gia vào chuyện tranh chấp: Anatole Chabouillet, giám đốc Văn phòng Huân huy chương của Thư viện Quốc gia. Anatole Chabouillet (1814-1899) xuất thân từ một gia đình có truyền thống là nghệ sĩ và trí thức, ông đã tiếp xúc [những nhân vật tầm cỡ như] Mérimée, Musset, Nodier, Delacroix, Sainte-Beuve, Flaubert, công chúa Mathilde… Đầu tiên, Anatole Chabouillet đã làm việc ở Sở Đúc Tiền Paris: nơi đây, vào năm 1833, ông đã công bố công trình có tựa là “Danh mục các loại giùi [đục kim loại], khuôn dập, huy chương của Viện Bảo tàng Tiền cổ” [“Catalogue des poinçons, coins, médailles du Musée monétaire”]. Ngày 2 tháng 12 năm 1859, ông nhận chức giám đốc Văn phòng Huân Huy chương theo sắc lệnh hoàng gia. Chính ông là người đã tiếp nhận việc hiến tặng cực giá trị của công tước De Luynes, người đã mua lại bộ sưu tập tiền cổ Trung Hoa của ông Henri Fontanier, Thư ký Lãnh sự của phái bộ Pháp tại Bắc Kinh. Gần gũi với giới nghệ sĩ và thích tiếp cận đón nhận những nghiên cứu Đông phương học, Chabouillet do đó khá thân với con người trẻ tuổi Gabriel Devéria, hẳn đã báo cho Chabouillet biết giá trị lịch sử cũng như về nghiên cứu tiền cổ của kho báu triều đình Huế. Ngày 9 tháng 12 năm 1886, Anatole Chabouillet gửi một công văn cho giám đốc Sở Đúc Tiền Paris yêu cầu phải có biện pháp lưu giữ những mẫu nén vàng bạc và tiền thưởng của kho báu [đến từ Huế] dành riêng cho các bộ sưu tập của Văn Phòng Huân Huy chương thuộc Thư viện Quốc gia, và rằng “sẽ thật đáng tiếc nếu tất cả biến hết vào lò nấu chảy”: “nếu không làm như yêu cầu thì những vật phẩm quý hiếm đó […] sẽ có thể vĩnh viễn mất đi [là thiệt hại] cho nước Pháp cũng như cho Khoa học nói chung”242. Và bây giờ thì tất cả các Bộ: Ngoại giao, Tài chính, Giáo dục và Nghệ thuật đều nhòm ngó vào cái kho báu.
242 Arch. AMM, Dossier Huê, 9 /12/1886
Bị Bộ chủ quản thúc giục, ngày 16 tháng 12, Jean-Louis Ruau yêu cầu giám đốc phòng thử nghiệm của Sở Đúc Tiền Paris và ông Frosté, phụ trách kế toán thu ngân là người có trách nhiệm về việc này, cho làm thử nghiệm xác định tuổi của các nén vàng bạc, nghĩa là xác định chính xác thành phần kim loại và lượng kim loại tinh. Người ta cho vào lò nấu chảy một mẫu nặng 7,396 kílô vàng từ những “mẫu mảnh khác nhau”. Hai ngày sau, người ta thông báo rõ cho giám đốc phòng thử nghiệm là cần phải lấy những lá vàng lá bạc trên hai mươi nén chọn ra theo ngẫu nhiên để làm thử nghiệm xác định tuổi. Như thế, đó là lần đầu tiên các nén vàng bạc bị phá huỷ, dù chỉ là một phần thôi. Ngày 27, kết quả phân tích được gửi về cho giám đốc của Sở Đúc Tiền: bạc có [tuổi] 990,78 °/oo, là kim loại tinh, nhưng vàng thì dao động tùy theo các loại khác nhau, là nén vàng hay tiền thưởng.
Trong suốt tháng 12 năm đó, Gabriel Devéria đến Trụ sở Sở Đúc Tiền để thẩm định các nén vàng bạc cũng như các đồng tiền thưởng; ngày 21, ông đã có thể trao cho Jean-Louis Ruau báo cáo về nhận dạng và phân tích, và ông đề nghị giữ lại 94 vật phẩm hay nén vàng dành cho các bộ sưu tập quốc gia, như bộ của Viện Bảo tàng Tiền cổ của Sở Đúc Tiền và bộ của Văn Phòng Huân Huy chương. Ông đánh giá thực tế các mẫu vật này “là vật phẩm thực sự được tạo tác, trau chuốt, có cân nặng đồng đều, có ghi giá trị và niên hiệu triều đại vào thời điểm được chế tác. Những nén vàng bạc như vậy, nói tóm lại, thực sự có giá trị “thực tế ngoại tại” (extrinsèque sic [không chỉ thuần tuý giá trị vật chất của kim loại])”243.
243 Arch. AMM, Dossier Huê, 21 /12/1886
Ngày 12 tháng giêng năm 1887, vững tin với ý kiến của nhà nghiên cứu Trung Hoa học [Gabriel Devéria], giám đốc Sở Đúc Tiền gửi cho vị tân Bộ trưởng của Bộ Tài chính, ông Albert Dauphin, một công văn có tựa là “Báo cáo về giá trị nội tại của các nén vàng bạc và mẫu vật thuộc Kho báu của [triều đình] Huế”, trong báo cáo ông ghi số tiền giá trị là 3.934.892,54 quan Pháp về phần vàng, và 2.493.051,18 quan Pháp về phần bạc. Nhưng Jean-Louis Ruau còn cẩn thận nói thêm, “ngoài ước tính về giá trị nội tại của những vật phẩm, Sở Đúc Tiền còn đã xem xét những vật phẩm nào, do tính cách quý hiếm của chúng, có thể còn có một giá trị về nghiên cứu tiền cổ và xứng đáng được lưu trữ. Liên quan vấn đề này, chúng tôi đã nhận được ý kiến của các ông: Chabouillet, chuyên gia bảo tồn, Giám đốc Thư viện Quốc gia244, Devéria và Lalande”. Jean-Louis Ruau cũng đã nhờ một chuyên gia khác xem xét các vật phẩm, là “ông Lagrange245, một nghệ sĩ chịu trách nhiệm xưởng bản khắc [gravure sic], xem xét về mặt phương thức chế tác: ông đã nhận ra là chúng được đổ đồng nhất theo khuôn, sau đó được điều chỉnh gia giảm cho đồng đều về trọng lượng, tiếp đó được chạm khắc hay in ép theo những mẫu được đẽo gọt hơn là in khắc. Các vật phẩm hình tròn được chạm khắc theo những khuôn rập được khắc tự do”. Do đó, Jean-Louis Ruau gợi ý bán đi những nén hay đồng tiền bằng vàng như những vật phẩm nghệ thuật [objets d’art sic] hay như là những vật chứng về tiền cổ [témoignages numismatiques sic] thay vì đem chúng đi nấu chảy: [theo ông] “có thể có lợi hơn cho Ngân khố [Pháp] khi cho bán đi những vật phẩm này cho [giới] sưu tập theo những điều kiện bình thường, thay vì đem đi nấu chảy để đúc tiền”. Liên quan đến các nén bạc, ông De Lalande lại có ý kiến kỳ lạ là chúng không có giá trị gì về mặt nghiên cứu tiền cổ, nhưng dựa vào ý kiến của Devéria, Ruau “xem rằng cũng cần phải lưu giữ một số mẫu” dành cho các bộ sưu tập quốc gia246. Đến bước này thì có thể tin rằng, nếu như số phận gần như toàn bộ các nén bạc đã được an bài là đưa vào lò nấu chảy thì các vật phẩm bằng vàng từ kho báu triều đình Huế có thể được cứu thoát, khỏi chung số phận đem đi nấu chảy: nếu không được giữ toàn vẹn như từ gốc gác xuất xứ thì ít nhất cũng giữ được các thành phần cấu thành khác nhau, nay mai sẽ được vào tay các nhà sưu tập tư nhân hay được đặt vào các bộ tiền thưởng hay huân huy chương tại các viện bảo tàng lớn trên thế giới. Thật vậy, theo như cách gợi ý của ông giám đốc Sở Đúc Tiền Paris, nếu không chỉ hạn chế ở duy nhất giá trị kim loại, không những việc bán đấu giá các nén vàng, nén bạc và các đồng tiền thưởng thu lợi được rất nhiều cho [ngân sách] Nhà Nước, mà còn cứu vãn được, về mặt lịch sử, những chứng tích vô giá về tiền cổ.
244 Anatole Chabouillet chưa từng là giám đốc Thư viện Quốc gia, mà chức vụ này [thời gian đó] chưa có: ông là giám đốc của Văn phòng Huân huy chương.
245 Jean Lagrange (1831-1908), là Trưởng chuyên gia bản khắc [graveur général sic] về tiền tệ của Sở Đúc Tiền Paris, từ năm 1880 đến năm 1896.
246 Archives AMM, Dossier Huê, 12/1/1887
Nhưng sự thể đã không tính đến sự ngu ngốc [bêtise sic] của một vị nguyên là thị trưởng thành phố Amiens và là chủ tịch hội đồng tỉnh Somme, nay theo những tình cờ ngẫu nhiên phe phái chính trị nào đó đã trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính trong chính phủ của ông Goblet. Đó là Bộ trưởng Albert Dauphin, ông chẳng hiểu gì về chuyện lịch sử nghệ thuật hay tiền cổ, điều quan trọng đối với ông này: trước mắt thu ngay vào ngân sách được bao nhiêu từ 15 tấn bạc và một tấn vàng như vậy đang trong tay. Một tháng sau khi nhận được “Báo cáo về giá trị nội tại của các nén vàng bạc và vật phẩm của Kho báu [triều đình] Huế”, ông Bộ trưởng gửi một công văn có tính răn đe cho ông giám đốc Sở Đúc Tiền:
“Tôi đề nghị ông cho để vào dự trữ những loại mà ông đã lựa chọn, theo đó lập một danh mục chi tiết, và rồi cho tiến hành ngay việc nấu chảy chiết lọc những phần còn lại bằng vàng và bạc ông đang nắm giữ. Đồng ý với [quan điểm của] đồng nghiệp của tôi ở Bộ Ngoại giao247, tôi nghĩ là, hiện nay, không có chuyện thử đem đấu giá công chúng những thứ kim loại đang trong tình trạng như thế của chúng.”248
247 Đó là ông Emile Flourens
248 Archives AMM, Dossier Huê, 19/02/1887
Vâng theo lệnh của bộ chủ quản, giám đốc Sở Đúc Tiền giao cho trưởng chuyên gia bản khắc cùng với người kế toán thu ngân nhiệm vụ thiết lập một danh sách chính xác và thật đầy đủ các nén vàng bạc và tiền thưởng, sẽ cấu thành danh mục chi tiết về kho báu của Huế “tạm thời được bảo tồn”. Chính với sự hỗ trợ của Gabriel Devéria mà danh mục này được lập ra và trình cho giám đốc vào ngày 8 tháng 4 năm 1887249. Việc phải làm đó là nhận dạng mỗi loại và xác định số lượng mẫu vật phẩm theo mỗi loại, tiếp đó chọn ra một hoặc hai bản mẫu mỗi loại sẽ dành cho các bộ sưu tập quốc gia.
249 François Thierry, “Les Collections monétaires […], op.cit. vol.II, Annexe I, pl.91- 94. Voir aussi Annexe 1, p. 265.
Cùng thời gian đó, đã có thông báo đấu thầu việc [nấu chảy] chiết lọc các nén vàng bạc: sẽ nấu chảy và tách riêng ra các loại kim loại. Việc nấu lọc bạc được giao qua đấu thầu cho một công ty có tiếng tăm, công ty Comptoir Lyon – Alemand, còn Sở Đúc Tiền sẽ phụ trách việc nấu lọc vàng. Chỉ trong thời gian có 19 ngày, từ ngày 24 tháng 5 đến ngày 2 tháng 7 năm 1887, kho báu triều đình Huế đã bị nấu chảy. Ngày 11 tháng 7, Maurice Rouvier, tân Bộ trưởng Tài chính, đồng thời cũng là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, yêu cầu ông giám đốc Sở Đúc Tiền cung cấp cho ông các kết quả nấu lọc [kho báu], “để ông có thể thông tin cho Bộ Ngoại giao vì Bộ này từ lâu đã nhấn mạnh về việc ấn định chính xác lượng vàng và bạc mà Ngân Khố sẽ dứt khoát phụ trách nhằm phục vụ cho công cuộc bảo hộ tại An Nam và Bắc Kỳ”250. Năm ngày sau, ban giám đốc của Trụ sở Sở Đúc Tiền [Hôtel des Monnaies sic] gửi cho Bộ trưởng Tài chính hai báo cáo về nấu lọc và các khối lượng vàng và bạc thu được. Ngày 8 tháng 10 năm 1887, giám đốc Sở Đúc tiền nhận một văn thư của Bộ Tài chính, có ghi tham chiếu “Biến đổi thành đồng 20 quan Pháp và đồng piastres [dùng trong] thương mại của Pháp, từ những nén vàng bạc xuất xứ từ kho báu [triều đình] Huế”. Bộ trưởng [Tài chính] như thế đã cho chỉ thị về việc sử dụng các khối kim loại từ kho báu [triều đình] Huế:
250 Archives AMM, Dossier Huê, 11/07/1887
“Tôi yêu cầu ông có các biện pháp để tiến hành đúc thành các đồng 20 quan Pháp, và thành các đồng piastres thương mại có hình ảnh biểu tượng của nước Pháp, từ những khối kim loại mà ông chịu trách nhiệm quản lý: về vàng, tổng trọng lượng chính xác là 1.098,657950 kílô; về bạc, tổng trọng lượng chính xác là 14.686,764361 kílô. Liên quan đến việc chế tác các đồng piastres thương mại, tôi mong muốn việc chế tác được khởi động lại ngay và làm sao ông có thể cung cấp bàn giao từ 100 đến 150 ngàn [đồng piastres] mỗi tháng. Theo cùng với đà chế tác tiền piastres, các đồng tiền vàng phải được nộp vào “Ngân khố Trung ương” [Caisse centrale sic]. Về các đồng piastres, số đồng tiền này sẽ nhờ Sở của ông gửi về cho “Quản trị viên Ngân sách” [Trésorier Payeur sic] của Nam Kỳ […]”, ký tên “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Tài chính, Rouvier251.”
251 Archives AMM, Dossier Huê, 8/10/1887
Như thế, các nén vàng bạc với tiền thưởng của Huế đã được đúc thành các đồng tiền của Pháp theo hai dạng: những đồng tiền vàng loại 20 quan (đồng Napoléon) dạng “Génie”252, cân nặng 6,45g, tuổi [hay độ tinh khiết] là 900°/oo; và các đồng piastres thương mại dạng “Đông Dương thuộc Pháp” (“Indochine française” sic), cân nặng 27,215g, tuổi là 900°/oo, được đúc từ năm 1885. Ngày 11, giám đốc Sở Đúc Tiền chuyển các lệnh của Bộ trưởng cho viên kế toán thu ngân253. Tiến trình cuối cùng được khởi động: qua hai văn thư, một vào ngày 14 tháng 10, một vào ngày 31, viên kế toán thu ngân được phép giao cho trưởng phụ trách công trình 150, rồi tiếp đó 34 nén vàng, đồng thời là một tấm mỏng bằng vàng nặng khoảng 9,2g, thu được từ việc nấu lọc kho báu Huế, mục đích là để chế tác các đồng tiền quốc gia [Pháp], với độ tinh khiết của vàng254 là 998°/oo. Kho báu triều Nguyễn, ít nhất là phần Pháp nắm giữ đã kết thúc ở lò nấu đúc. Ngoại trừ vài nén vàng bạc và tiền thưởng được bảo tồn nhờ công của Jean-Louis Ruau và Gabriel Devéria.
252 DG: Xem thêm ở trang: https://www..fr/numisbdormatique/20-francs-genie
253 Archives AMM, Dossier Huê, 11/10/1887
254 Archives AMM, Dossier Huê, 14/10/1887 et 31/10/1887. Có sai sót về ghi chép độ tinh khiết, là 900°/oo: vì lẽ không có đồng 20 quan nào có độ tuổi 998°/oo