Về chuyện kho báu, De Courcy đã thông báo ông sẽ cho cất giữ kỹ lưỡng, thế nhưng ông đã nhanh chóng sử dụng một cách kín đáo. Trong một bức điện ngày 8 tháng 7 gửi cho Bộ Chiến tranh, ông viết:
“Tối hôm qua [tôi] đã tiếp sáu vị thương gia Trung Hoa không còn nguồn lực, đã đảm bảo với họ sự quan tâm thông cảm của tôi và đề nghị họ liên lạc tập hợp tất cả các thương gia Trung Hoa đang sống lang thang; [tôi] sẽ cấp cho họ, từ Kho báu hoàng gia, vài nén bạc để hỗ trợ họ trong lúc rủi ro tai ương.”223
223 Archives Affaires étrangères MD Asie 47 f°49
De Courcy bắt đầu lo lắng cho ngày mai của khối nén vàng, nén bạc: với Bộ Chiến tranh, ông đề nghị sử dụng một phần kho lẫm này để trả tiền cho việc tổ chức “các đội quân bản địa”, rồi ông giải thích “cần thiết phải phái một chuyến tàu, với những chuyên gia có trình độ, chở [các báu vật nghệ thuật cùng với] kho báu về Pháp”224. Nhưng, trước cả khi diễn ra việc truất phế vua Hàm Nghi, vần đề trao trả kho báu cho triều đình đã nhanh chóng trở thành chủ đề tranh luận rất nóng sốt: “Người ta bàn chuyện trao trả kho báu cho lũ khốn đó à [“à ces b…-” sic]! Chúng ta như thế thật ngây thơ, đúng thế không? Lũ [An Nam] đó sẽ không hiểu gì, trong khi chúng ta thì lại cần thêm bơ thêm thịt cho đĩa rau của chúng ta chứ”225. Trong lúc còn đang bàn cãi, kho báu vẫn ở trong tay của tướng De Courcy: ngày 19 tháng 9, trong dịp lễ đăng quang, “tướng De Courcy đã trao tặng cho mỗi sĩ quan và lính thú một đồng tiền vàng loại lớn, xem đó như huy chương kỷ niệm ngày vua Đồng Khánh lên ngôi. Đó xem như là lần trích ra duy nhất từ kho báu tìm được trong hoàng cung của Huế”226.
224 Archives Affaires étrangères MD Asie 47 f°121
225 Général Jullien, “La chefferie du Génie de Huê par les Français”, lettre du 28 août 1885, BAVH, 1942-I, p. 219
226 H.Cosserat, “L’intronisation du roi Dong Khanh”, BAVH, 1920-II, p. 364.
Cuối cùng, liên quan đến những tác phẩm mỹ thuật của hoàng cung, được gọi là “những báu vật nghệ thuật”, chúng được trao trả cho vị vua mới ngay tức thì khi vua lên ngôi. Trong một bức điện cho Bộ Chiến tranh đánh đi ngày 14 tháng 9, De Courcy thông tin cho cấp trên: “Tất cả các báu vật tác phẩm nghệ thuật được quân đội thắng trận thu giữ và cất giữ lúc chiếm đóng thành nội, đã được trao lại tận tay [đức vua]”227. Chúng ta còn có một lời chứng chính xác hơn nữa:
227 Archives Affaires étrangères MD Asie 47 f°290
“Trong căn phòng lớn dành cho đại lễ, được dùng cho buổi tiếp đón các vị sứ thần, […] tất cả các báu vật quý hiếm, thoát được chuyện cướp bóc hôi của [vào ngày biến cố], được xếp đặt một cách rất đẹp mắt. Trên một bục đặt trước ngai vàng, có các ấn tín bằng vàng, bằng ngọc, thuộc sở hữu các vị vua trước kia, những kim sách với những khắc chạm về những công trạng huy hoàng mỗi triều đại. Ngài tổng trú sứ Pháp trao trả lại cho đức vua Hoàng thành cùng với những báu vật.”228
228 H.Cosserat, “L’intronisation du roi Dong Khanh”, BAVH, 1920-II, p. 362.
Tức khắc, kho báu trở thành một thách thức đấu tranh mâu thuẫn giữa ba Bộ [trong chính phủ Pháp] trong việc “kế thừa” tiếp quản: Bộ Hải quân và Thuộc địa, cho là đã có tốn kém công của trong chiến tranh ở Bắc Kỳ đồng thời là Bộ chủ quản công việc bảo hộ [xứ An Nam] cho đến ngày 7 tháng giêng năm 1886; Bộ Ngoại giao với tư cách Bộ tiếp quản chủ quản công việc bảo hộ; và Bộ Tài chính, vì đã ứng kinh phí [trong công cuộc mở rộng thuộc địa].
Đầu năm 1886, vì những lý do chủ yếu mang tính chính trị, ba Bộ nêu trên đạt được một thỏa thuận đầu tiên: đồng ý hoàn trả lại cho vị vua mới lên ngôi Đồng Khánh một nửa kho báu, và việc này đã được Paul Bert thực hiện vào tháng 5 năm 1886229. Một nửa kho báu còn nắm giữ được ưu tiên dùng để hoàn trả những kinh phí Ngân khố Pháp đã tạm ứng cho những chiến dịch quân sự cộng với những phí tổn về quản trị và hành chính vùng bảo hộ toàn cõi An Nam và Bắc Kỳ. Phần dôi ra nếu còn sẽ được chuyển trực tiếp vào ngân sách chính quyền bảo hộ230. Kho báu tạm thời được giao cho Sở Đúc tiền và Huân huy chương (administration des Monnaies et Médailles sic), thường gọi ngắn gọn là “[Sở Đúc] Tiền Paris” (“Monnaies de Paris”231), trực thuộc Bộ Tài chính, để kiểm kê thẩm định giá trị của toàn bộ kho báu quý hiếm, trong khi chờ đợi quyết định những nơi nào sẽ được tiếp nhận. Vào tháng 7 năm 1886, kho báu được chuyển từ Huế về Sài Gòn, rồi từ đây đóng thùng có niêm phong để lên tàu chở về cảng Marseille: về đến cảng này vào đầu tháng mười. Ngày 6 tháng 10, tại nhà ga Marseille, kho báu được đóng thành 206 thùng chất lên bốn toa tàu được gắn chì niêm phong. Thanh tra của ga Paris [đường tàu] PLM [viết tắt của Paris-Lyon-Marseille-Saint Charles] thông báo cho ông Jean-Louis Ruau, đang là giám đốc Sở Đúc tiền Paris232, về “chuyến tàu chở những nén tiền xứ An Nam về ga”233. Ngày hôm sau, các ông Frosté, phụ trách kế toán tài vụ của Sở Đúc tiền Paris, và Jambon, kiểm tra viên hối đoái, đến nhà ga để tháo niêm phong và cân lại các thùng chứa tiền. Đầu tiên, họ thiết lập các biên bản kiểm tra 192 thùng đánh dấu chữ A (“argent”), nghĩa là “bạc”, chứa tổng cộng 38.106 nén [bạc] với tổng trọng lượng 14.631 kílô: họ ghi nhận là thiếu mất 27 nén so với danh sách gốc. Các vị kiểm tra viên lưu ý: “Chúng tôi nhận thấy có khá nhiều nén bạc bị nhiễm cát, do phương cách nấu chảy được vận dụng”. Các vị này thảo ra tiếp biên bản kiểm tra cho 14 thùng đánh dấu chữ O, (“or”), nghĩa là “vàng”, đựng 7635 nén vàng và tiền thưởng bằng vàng, có tổng trọng lượng 1.350, 2291 kílô, nhưng họ ghi nhận là có 10 nén lớn nhỏ, tổng trọng lượng khoảng 15,069 kílô, là bằng chì được mạ vàng! Do đó, tổng trọng lượng của các nén và tiền thưởng bằng vàng thực sự chỉ lên đến 1.335,1601 kílô234. Ngày 19 tháng 10, ông Frosté gửi các biên bản kiểm tra chính thức lên giám đốc Sở Đúc tiền Paris235.
229 Xem chương 9
230 Archives Affaires étrangères MD Asie. 103, f°121-122.
231 DG: “Monnaie de Paris” được thành lập vào tháng 6 năm 864, là định chế xưa nhất của nước Pháp và cũng là một trong những doanh nghiệp xưa nhất trên thế giới vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay: xem thêm Wikipedia
232 Jean-Louis Ruau (1826-1893), thị trưởng của Juzet (tỉnh Haute-Garonne) và là cố vấn trưởng của thị trấn Aspet: đầu tiên ông là chánh văn phòng của Bộ Tài chính, rồi làm phó giám đốc Sở Đúc tiền Paris vào tháng giêng năm 1871. Ông trở thành giám đốc Sở Đúc tiền vào năm 1875, ở chức vụ này mãi cho đến khi về hưu vào năm 1891.
233 Arch. AMM, Dossier Huê, 6/10/1886 et 8/10/1886
234 Arch. AMM, Dossier Huê, 9/10/1886
235 Arch. AMM, Dossier Huê, 19/10/1886
Kể từ thời điểm đó, Jean-Louis Ruau thực sự bị quấy rầy không ngớt qua công văn thư từ đến từ hai Bộ: Bộ chủ quản là Bộ Tài chính, và Bộ Ngoại giao. Bộ Hải quân và Thuộc địa, chấm dứt quyền chủ quản đối với các thuộc địa theo sắc lệnh ngày 7 tháng giêng năm 1886236, thì có phần kín tiếng hơn. Giám đốc Sở Đúc tiền Paris nhận thức ngay là những nén vàng bạc và tiền thưởng như thế [đến từ xứ An Nam] không chỉ là vàng, là bạc mà còn có thể có giá trị lịch sử: ông yêu cầu giới thiệu cho ông một nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Trung Hoa, hay ít nhất là một người có thể đọc được các dòng chữ ghi trên nén tiền. Ngày 2 tháng 11, Sadi Carnot [1837-1894], Bộ trưởng Bộ Tài chính, thông tin cho ông giám đốc Sở Đúc tiền là ông đã chuyển cho cơ quan phụ trách các vùng Bảo hộ một bản sao các biên bản của ông Frosté, đồng thời ông đã đề nghị Thủ tướng Charles de Freycinet, cũng đồng thời là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, cho mời ông Gabriel Devéria liên lạc với giám đốc [Sở Đúc tiền] để “tiến hành xem xét những chữ được ghi khắc trên các nén vàng và các đồng tiền cùng loại kim loại chứa trong các thùng mà nội dung chứa đựng đã được ông thông báo”237. Gabriel Devéria đâu phải là nhân vật bình thường, ông là một trong những nhà Trung Hoa học hàng đầu thời gian đó. Sinh ra tại Paris, có cha là Achille Devéria, là một họa sĩ và thợ khắc nổi tiếng, đồng thời cũng là cháu của Eugène Devéria, một họa sĩ còn nổi tiếng hơn nữa, do đó Gabriel Devéria có cơ hội tiếp xúc nhiều với những khuôn mặt lớn của trường phái lãng mạn như [nhà văn] Victor Hugo, [nhà văn, nhà phê bình] Sainte-Beuve hay [họa sĩ] Delacroix. Gabriel Devéria hướng về nghiên cứu văn hóa phương Đông và quyết định học tiếng Trung Hoa. Vào tháng 2 năm 1860, ông được nhận làm thực tập sinh phiên dịch và nhận công tác tại Thiên Tân [Trung Hoa] vào tháng 9. Tiếp đó, ông nhậm chức Thư ký lãnh sự tại Lãnh sự quán Pháp vào tháng 2 năm 1870, sau đó là phiên dịch viên thứ nhất của phái bộ Pháp tại Bắc Kinh vào năm 1873. Gabriel Devéria trở về Paris vào năm 1880 và tham gia vận động phe “thuộc địa” (parti colonial sic) bên cạnh Jules Ferry, vì ông là người nhiệt tình ủng hộ việc chiếm đóng Bắc Kỳ. Ông lên chức thư ký-phiên dịch viên238 tại Bộ Ngoại giao Pháp vào năm 1882239.
236 Journal Officiel [Công Báo], 8 janvier 1886, p. 123.
237 Arch. AMM, Dossier Huê, 2 /11/1886
238 DG: Chuyện tình cờ, năm 1889, hoàng thân Ưng Lịch, tức vua Hàm Nghi đang bị lưu đày ở Algérie, liên lạc với Gabriel Devéria, qua trung gian viên sĩ quan Henri de Vialar, để đề nghị cung cấp bút lông, mực, tiếp đó là sách vở chữ Hán để tiếp tục đọc và viết chữ Hán, xem Amandine Dabat, “Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger”, Sorbonne Université Presse, Paris 2019, p. 96.
239 Voir Edmond Pottier, “Notice sur la vie et les travaux de Gabriel Devéria”, CRAI 1900, 44-II, p. 128-143.
Do đó, Freycinet, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, phụ trách các vùng bảo hộ chưa được một năm, đã quan tâm đến vấn đề kho báu. Ông mong muốn thẩm định giá trị của phần thuộc về ông [là Bộ Ngoại giao], và ông đã trao đổi với Sadi Carnot. Vào ngày 12 tháng 11, Sadi Carnot viết cho giám đốc Sở Đúc Tiền Paris: “Bộ trưởng Bộ Ngoại giao mong muốn được thông tin sớm nhất có thể về tổng số tiền, là giá trị chính xác của toàn bộ của cải nằm trong kho báu An Nam mà [cơ quan] ông đã tiếp nhận. Và ông Bộ trưởng nhấn mạnh là thông tin như vậy cần phải đến tay ông không chậm trễ”240. Và rồi mọi việc diễn ra chóng vánh: ngày 3 tháng 12 năm 1886, giám đốc Sở Đúc Tiền Paris nhận được ba văn thư: một viên chức Bộ Ngoại giao, ông De Lalande241, gửi cho ông giám đốc một nghiên cứu đầu tiên và một danh mục các loại nén của kho báu [triều đình] Huế. Một sự ngẫu nhiên thật kỳ lạ, cũng ngay ngày hôm đó, ông giám đốc được Gabriel Devéra, vốn hình như chưa có ai liên lạc tiếp xúc, nhắc lại là sẵn sàng hợp tác để nhận dạng và thiết lập danh mục các loại nén và tiền thưởng. Cuối cùng là ông Bộ trưởng Bộ Tài chính nhắc trở lại đòi hỏi muốn biết ngay số tiền và giá trị chính xác khối của cải vàng bạc của kho báu [triều Nguyễn].
240 Arch. AMM, Dossier Huê, 12 /11/1886
241 Người ta không biết gì thêm về nhân vật này: không hề để lại dấu tích gì trong ngành Trung Hoa học.