T
ôi bắt đầu nhận ra rằng Derrel có giác quan thứ sáu trong chuyện biết chính xác lúc nào phải nói gì để làm người khác cảm thấy khá hơn. Đôi lúc anh ấy còn biết nói điều tuyệt đối vu vơ. Thậm chí không có câu nào kiểu như “Nếu đằng ấy cần người nói chuyện thì tớ luôn có mặt”, cái câu vốn vẫn luôn vô dụng hơn là chẳng nói gì sất, bởi vì, cái câu đấy ấy hả? Vô tích sự. Cả cái câu xưa như trái đất “Nếu đằng ấy cần gì thì cứ nói với tớ” cũng vớ vẩn bỏ mẹ ra.
Thường vẫn nghe người ta nói thế suốt, nhưng mà chẳng bao giờ thấy ai thực sự gọi cho cái người thốt ra câu ấy và bảo, “Này, anh có nhớ đã từng bảo là cứ nói với anh nếu tôi cần gì không? Chà, thú thực là tôi đang cảm thấy ngập ngụa. Anh có thể đến lau dọn nhà bếp hộ tôi được không, vì nếu có được một gian bếp sạch sẽ, tôi sẽ cảm thấy mình khá khẩm hơn đôi chút”. Bạn sẽ chẳng bao giờ nghe thấy ai nói thế, bởi rồi cái người đòi người khác phải lau dọn bếp cho mình sẽ bị coi là một đứa cùi bắp vớ vẩn vô tích sự.
Sẽ tốt hơn nhiều nếu người phun ra cái câu xàm xĩnh vô dụng “nếu đằng ấy cần gì thì cứ nói” kia chỉ cần cứ thế đến nhà bạn, rồi lau dọn sạch tưng gian bếp chết tiệt mà không cần bạn mở mồm ra nhờ. Cứ đến rồi nói, “Này, đằng ấy đi chăm con, làm việc hay ngủ quách đi một giấc. Khi xong rồi, đằng ấy sẽ có một gian bếp sạch boong. Và không, đằng ấy chẳng nợ tớ cái quái gì cả. Một ngày nào đó chúng ta sẽ ở trong hoàn cảnh ngược lại, ô kê?”.
Và Derrel luôn chơi cái trò khỉ đó. Anh ấy chẳng hề thở ra một lời nào hay ám chỉ gì, nhưng lại mê trò buôn dưa lê đến nỗi không thể không biết chuyện gì đang xảy ra với bố tôi. Anh ấy chẳng hỏi vì sao tôi trầm lặng thế, như vậy khiến tôi nhẹ nhõm hơn nhiều so với những gì có thể bày tỏ. Và không, anh ấy chẳng ghé qua lau dọn bếp cho tôi gì cả, nhưng đến gần trưa lúc bọn tôi gặp nhau ở hiện trường một vụ tử vong, anh ấy liền chặn tôi lại trước khi bọn tôi vào trong nhà và đưa tôi một cái tách cách nhiệt chứa chocolate nóng, một túi giấy đựng trứng cùng bánh quy kẹp thịt muối.
“Cô em gầy như que củi ấy”, anh ấy bảo tôi. “Và nếu cô em không vui vẻ mà ăn đi thì anh sẽ đè cô em xuống bắt ăn cho bằng sạch đấy.”
Tôi cầm lấy cái túi từ tay Derrel, tuyệt đối tin chắc rằng anh ấy sẽ làm chính xác như thế.
“Hơn nữa”, Derrel nở nụ cười xấu xa thêm vào, “khi tham gia một hiện trường chết người thì lúc nào cũng nên no bụng. Chẳng có trò gì kinh hơn là nôn ọe với cái bụng trống rỗng”.
“Em chưa từng và sẽ chẳng khi nào nôn ọe tại một hiện trường có người chết”, tôi ngồm ngoàm với cái miệng đầy thịt muối cùng bánh trứng.
Derrel cười toe toét. “Anh bắt đầu tin điều đó là sự thật rồi đấy. Cô đang dần trở thành lực lượng nòng cốt ngon xơi rồi. Thật kinh ngạc với thứ mà người ta có thể vượt qua được, đúng không?”
Đó là điều gần với ý nghĩa an ủi nhất mà Derrel thốt ra. Nhưng tôi cảm thấy mình được an ủi, được an toàn, được đủ thứ, hơn hẳn so với tình huống anh ấy ôm chầm lấy tôi, làm gì kỳ quái hoặc công khai bày tỏ tình cảm kiểu như thế. Thực ra, nếu bị Derrel ôm chầm lấy thì chắc là tôi sẽ thất kinh hồn vía lên mất, bởi vì, chậc, như thế thật quái đản bỏ mẹ. Nhưng mà bản thân tôi cũng chẳng quen với mấy cái trò công khai bày tỏ tình cảm hơn bất kỳ ai. Nếu không ngủ với tớ thì đừng có chạm vào tớ.
Tôi xử lý nốt miếng bánh và tách chocolate nóng, rồi theo Derrel vào trong căn hộ cùng với cái cáng và túi đựng xác.
Không có dây hiện trường phạm tội hay sổ ra vào gì, mà chỉ có một cảnh sát ở cửa dẫn bọn tôi đi thẳng vào phòng ngủ sau nhà. Tôi để cái cáng trong sảnh rồi cầm túi đi theo Derrel.
Bọn tôi đang ở trong một căn hộ đầu phía Nam Tucker Point, trong một khu phức hợp tự quảng bá cho mình bằng những từ ngữ như kiểu “xa hoa” và “cao cấp”. Qua cửa sổ phòng ngủ, tôi có thể thấy dòng sông Kreeger, còn trên đường lên đây, tôi đã thấy ở tầng trệt của khu chung cư này có một lối đi dẫn đến một khu bến riêng tư - điểm đỗ của một con thuyền với kích thước khiêm tốn.
Khu chung cư này có mọi đặc trưng hiện đại - trang thiết bị bằng thép không gỉ, sàn gỗ, quầy đá hoa cương. Nội thất trong phòng ngủ thì chắc chắn và tao nhã, tất cả đều bằng gỗ sồi sậm đồng bộ, không giống như những lựa chọn tằn tiện lôm côm ở nhà tôi. Bộ chăn ga gối bằng vải kim tuyến màu đỏ vàng tráng lệ trông đắt tiền kinh người, nhưng ngay lúc này lại đang vương vãi chất nôn mửa và bọt dãi.
Nhưng ít ra cũng không phải là chất nôn mửa gồm trứng-và-bánh-thịt-muối.
Nguồn cơn của chỗ chất nôn mửa ấy đang nằm nghiêng, mắt nhắm hờ và đục ngầu vì đã chết. Cô ta trông khá trẻ - có lẽ ngoài hai mươi lăm đến ba mươi tuổi. Xinh xắn và thanh mảnh, cô ta có mái tóc nâu dài chấm vai khẽ điểm xuyết vài lọn highlight màu đỏ và vàng, các sợi tóc xoăn ngoằn nghèo xuyên qua bãi nôn mửa đã đông cứng lại dưới đầu. Bong bóng dãi lưu lại trên miệng cô ta và tôi có thể thấy phần còn lại của lớp son đỏ sậm. Cô ta mặc cái áo ba lỗ màu hồng còn quần lót thì trông như hàng của Victoria’s Secrets chứ không phải Walmart, móng tay được cắt tỉa đẹp đẽ theo kiểu Pháp. Tôi có thể thấy những viên thuốc rải rác trong đống nôn mửa, khoảng nửa tá túi đựng thuốc trong tủ đầu giường.
Suy đoán nguyên nhân cái chết của cô ta không phải việc khó khăn cho lắm.
“Theresa Anderson. Hai mươi chín tuổi”, Derrel lắc đầu lẩm bẩm.
Miệng tôi cong lại thành vẻ cáu kỉnh khi nhìn quanh phòng. “Cuộc sống trong mơ, và như vậy vẫn là chưa đủ.”
“Còn tùy vào cách cô định nghĩa từ ‘mơ’”, Derrel lơ đãng đáp lại.
Khịt mũi, tôi thờ ơ xáo qua một chồng báo và cặp hồ sơ trên tủ đầu giường. “Sao cơ, anh muốn nói ‘tiền không phải là tất cả’, vân vân và vân vân ấy hả?” Tôi nhún vai. “Ý em là, dĩ nhiên, tiền chắc cú là quan trọng, nhưng...” Tôi lướt ánh mắt quanh phòng lần nữa. “Ý em là, nhìn nơi này mà xem. Ngon bỏ mẹ lên được.”
Tôi chờ Derrel tranh cãi điểm này với mình, đưa ra trường hợp rằng ngay cả người giàu có và thành công cũng có thể bị choáng ngợp hay gì đó, nhưng anh ấy đơn giản chỉ khẽ gật đầu trong lúc nguệch ngoạc ghi chép lại, miệng khẽ nói, “Thật phí của giời”.
“Thật điên khùng thì có”, tôi vặc lại. “Cô ta có tiền, có một nơi ngon tuyệt để sống.” Tôi quắc mắt nhìn đống giấy tờ. Thư từ và giấy tờ pháp lý. Chẳng có gì ghê gớm khủng khiếp cả. Trông khá là buồn tẻ với tôi. “Có vẻ như cô ta là một kiểu luật sư danh tiếng gì đó. Em cá chẳng ai thắc mắc xem cô ta có học đại học hay không. Derrel đằng hắng theo kiểu vô thưởng vô phạt, mắt liếc nhìn cái xác.
Tôi bước về phía giá sách, lần những ngón tay qua lớp bụi mỏng. Một chai tinh dầu tỏa ra mùi hương hoa dễ chịu hòa lẫn một cách kỳ cục với mùi nôn mửa. Ở chỗ này còn có nhiều sách luật hơn. Vài cuốn có những cái tựa nghe thật kiêu kỳ như kiểu mô tả về Oprah hay những thứ tương tự vậy. Chẳng thấy thứ gì có vẻ hài hước hay nhẹ nhàng. “Có lẽ cô ta không đương đầu được với áp lực.” Tôi nhún vai nói, rồi thở dài. “Em không biết. Em suy bụng ta ra bụng người thôi. Có phải tự tử không?”
“Khó nói lắm”, Derrel nói, ngước mắt khỏi tập hồ sơ. “Cảnh sát không tìm thấy thư tuyệt mệnh, nhưng như thế chẳng có ý nghĩa mẹ gì. Hầu hết các vụ tự tử có để lại thư tuyệt mệnh quái đâu. Mà bác sĩ Leblanc thì thường rất miễn cưỡng mới đưa ra kết luận tự tử, trừ khi đã tương đối chắc chắn. Anh cho rằng vụ này sẽ được kết luận là một tai nạn vì sốc thuốc.” Anh ấy lắc đầu. “Rất có thể ban đầu chỉ là lượng nhỏ - phương pháp chữa trị căng thẳng theo thời kỳ ấy mà, hay có thể là Adderall* hoặc thứ gì đó giúp cô ta qua được các buổi học. Rồi dần dần từ đó cô ta trở nên phụ thuộc vào nó.”
* Loại thuốc dùng trong điều trị chứng bệnh tăng động giảm chú ý, có tác dụng giúp người dùng tập trung, ghi nhớ và tỉnh táo bằng cách kích thích thẳng vào hệ thần kinh. Tuy nhiên, về lâu dài loại thuốc này gây nghiện và gây nguy hiểm cho não bộ.
Tôi im lặng khi nghe điều đó, và những cảm xúc trong lòng rối tung kỳ lạ khi bọn tôi chuyển cô ta vào túi đựng xác.
Giả thiết đó quá gần gũi với tôi. Tôi chỉ vừa vặn thoát khỏi cảnh bị tìm thấy trong tình trạng tương tự, mặc dù hầu như chắc chắn mọi thứ xung quanh tôi lúc ấy sẽ kém đáng yêu hơn rất nhiều. Nhưng thật kỳ lạ khi thấy những người có học thức, những kẻ thuộc tầng lớp thượng lưu cũng phải trải qua những thứ rác rưởi thế này. Ý tôi là, nếu xét về logic, tôi biết điều đó có thể xảy ra, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn luôn tin rằng lạm dụng thuốc và dùng thuốc quá liều chỉ giới hạn trong phân đoạn “thất thế” của tổng dân số.
Tôi mỉm cười mà chẳng cảm thấy vui vẻ chút nào. Không, tôi sai ở chỗ tin rằng “phân đoạn thất thế” ấy có liên quan đến vấn đề thu nhập hay tầng lớp xã hội.
Derrel cho đống thuốc nhiều loại khác nhau kia vào túi, rồi giúp tôi chuyển cái cáng ra khỏi căn hộ và vào trong xe. Không biết cô ta có mua thuốc từ Clive không? Dĩ nhiên có khả năng đó, mặc dù tôi biết có cả thị trường rộng lớn dành cho thuốc giảm đau, và cả đống người đang kiếm tiền bằng cách ấy.
Điện thoại của Derrel đổ chuông khi tôi đang đóng cửa sau xe tải lại. Anh ấy ghi chép lại một số thứ rồi ngẩng lên nhìn tôi, mặt ủ dột với vẻ sẵn sàng. “Hôm nay bận bù đầu. May là xe vẫn có chỗ cho hơn một xác chết.”
Cái xác thứ hai trong ngày nằm ở đầu bên kia giáo xứ, trong một căn phòng có hình ảnh đối lập hẳn so với căn hộ xa hoa của cô nàng Anderson.
Có một xe cứu thương đỗ bên ngoài, cạnh xe của sở cảnh sát và một xe ngầm rõ ràng thuộc về cảnh sát điều tra. Nhìn nhanh qua số hiệu chiếc xe ngầm, tôi biết đây không phải xe của Marcus, và tôi không thể khẳng định mình thấy nhẹ nhõm hay thất vọng trước điều đó.
Bên trong căn phòng có một tấm thảm cũ kỹ, nhiều chỗ xơ xác còn đồ đạc thì chẳng cái nào đồng bộ, nhưng tuyệt đối ngăn nắp và sạch sẽ hết mức có thể. Mùi bánh quy thoang thoảng trong không gian, hòa lẫn với hương hoa. Tôi nhìn quanh xem có chai tinh dầu thơm nào ở đây không, nhưng rồi nhận ra nguồn gốc của mùi hương đến từ những bông hoa thực sự trong cái bình sứ đặt trên bàn phòng ăn.
Thám tử Roth đứng cạnh cửa vào phòng bếp. “Nạn nhân của anh trong này”, anh ta nói với Derrel bằng tông giọng trầm, tránh sang bên để bọn tôi có thể nhìn thấy người phụ nữ trên sàn nhà. “Sarah Jackson.” Thế rồi anh ta hất đầu về phía phòng khách. Một người đàn ông da đen khoảng ngoài hai mươi, mặc áo phông trắng, quần jean cùng ủng lao động, đang ngồi trên đi văng và gục đầu vào hai tay. “Kia là Drew Russell, bạn trai cô ta. Họ sống cùng nhau, nhưng khoảng một giờ trước, cậu ta quay về từ chỗ làm ở ngoài khơi và tìm thấy cô ta.” Anh ta nhăn mặt.
Derrel gật đầu từ tốn với Roth rồi đi về phía phòng khách. Tôi ở lại trong khi anh ấy nhẹ nhàng nói chuyện với bạn trai của Sarah, nhưng vẻ đau đớn trên mặt anh chàng đó lộ rõ đến nỗi tôi phải quay đi.
Bước vào trong bếp, trong một giây ngắn ngủi và choáng váng, tôi nghĩ rằng người phụ nữ này chỉ đang ngủ gục, mặc dù tôi biết không thể nào có khả năng xảy ra chuyện đó. Nếu bọn tôi đã ở đây thì không thể nào. Cô ta nằm nghiêng sang phải, tay trái chĩa ra phía trước, chân hơi cong lại như thể đang cuộn mình để chợp mắt đôi chút. Nhưng mắt cô ta trợn trừng vô hồn, và khi bước đến gần hơn, tôi có thể thấy tay phải của cô ta bị xoắn lại kỳ cục phía dưới cơ thể.
Tôi cúi xuống rồi xỏ găng tay vào. Phần cơ thể gần sàn nhà nhất đỏ lựng và lốm đốm. Tôi đã làm công việc này đủ lâu để biết rằng cái đó được gọi là bầm máu - hiện tượng tụ máu trong cơ thể sau khi tim ngừng đập. Tôi khẽ chọc vào một điểm màu đỏ trên cẳng tay cô ta. Nó không đổi màu, thế có nghĩa là hiện tượng bầm máu đã cố định, và cô ta đã chết được ít nhất vài giờ. Ít ra đây không phải là vụ mà người bạn trai phải chịu trách nhiệm, tôi thầm nghĩ với vẻ nhẹ nhõm mơ hồ. Trông anh ta có vẻ tàn tạ vì mất mát, hẳn tôi sẽ cảm thấy mùi giả dối nếu đó chỉ là diễn trò.
Tôi ngẩng lên khi Derrel bước vào bếp. “Có gì hay không?” Anh ấy hỏi khi ngồi xuống cạnh tôi.
“Hiện tượng bầm máu đã cố định”, tôi trả lời. “Em chỉ mới tìm ra được đến thế.”
Derrel gật đầu rồi nhấc tay trái của nạn nhân lên và uốn cong phần khuỷu lại. “Tình trạng cứng đờ đến rồi lại đi, mặc dù đó là cách vớ vẩn để xác định thời gian tử vong. Không có dấu hiệu phù phổi - cái trò sùi bọt dãi đã xảy ra với cái xác vừa nãy ấy. Đó có thể là dấu hiệu cho khả năng dùng thuốc quá liều.”
Tôi không nghĩ người phụ nữ này bị sốc thuốc, nhưng lại chẳng có gì ngoài cảm giác cá nhân để hỗ trợ cho giả thiết đó, thế nên tôi không nói gì.
“Anh không nghĩ cô ta sốc thuốc”, Derrel nhắc lại suy nghĩ của tôi. “Nhưng bác sĩ Leblanc chắc chắn sẽ tìm ra.”
Bọn tôi lục soát nhanh quanh nhà để tìm thuốc thang, cuối cùng không tìm được gì ngoài ít thuốc kháng sinh. Một người hàng xóm đến và ngồi cùng với anh bạn trai trong khi Derrel nhẹ nhàng lấy thông tin về người thân hợp pháp gần nhất của nạn nhân, rồi tôi rời khỏi cùng với cái xác, để khung cảnh tan nát đau thương lại phía sau.
Bác sĩ Leblanc đã sẵn sàng bắt tay vào các ca mổ xác gần như ngay lập tức khi tôi quay trở về cùng mấy thi thể. Với vụ đầu tiên, Theresa Anderson, ông thực hiện kiểm tra nhanh các loại thuốc trong khi tôi vẫn còn đang dựng cô ta lên trên bục kê. Ông nhìn kết quả rồi thở dài và đặt nó sang bên. Trên thực tế, ông chỉ tiến hành lướt qua với các thao tác còn lại, kiểm tra thật nhanh các cơ quan nội tạng trong khi tôi vật lộn để theo kịp.
Tôi nhìn kết quả kiểm tra nhanh và luận ra rằng ông không muốn phí thời gian vào các thủ tục chuyên sâu, khi mà ai có mắt cũng thấy rõ rành rành là người phụ nữ này đã chết vì dùng thuốc quá liều, cho dù cố ý hay không. Dĩ nhiên luôn có khả năng là hiện trường có thể được dựng lên và đây có thể là một vụ giết người, nhưng nhiệm vụ tìm ra chuyện đó là của cảnh sát. Công việc căn bản của bác sĩ pháp y là đưa ra kết luận về hình thức và phương thức tử vong.
Thế nhưng thực tế mà nói, tất cả bọn tôi đều biết rằng chẳng có trò mèo nào trong cái chết của Theresa Anderson. Vụ này là vì điên rồ, chứ không phải vì tội ác.
Trái ngược hoàn toàn với vụ đầu tiên, bác sĩ Leblanc dành thời gian quý báu của mình cho nạn nhân thứ hai, Sarah Jackson. Ông cũng tiến hành kiểm tra nhanh với cô ta, nhưng kết quả sạch boong.
“Ái chà, chậc chậc”, cuối cùng ông lên tiếng, mắt nhìn xuống quả tim đã được cẩn thận chẻ ra trên thớt. “Ra là thế.”
“Sao thế ạ?”
Ông huơ con dao mổ nhuốm máu ra hiệu cho tôi đến gần và tôi ngoan ngoãn đến cạnh ông. “Cô ta có một động mạch vành bên phải nhỏ một cách khác thường. Phần lớn khả năng đã gây ra một vụ loạn tâm thất chết người. Chắc là chưa từng có triệu chứng nhỏ nào.” Ông chỉ vào thứ gì đó bên trong quả tim, nhưng tôi chỉ có thể hiểu lời ông rằng thứ gì đó mà tôi đang nhìn thấy đằng nào cũng là khác thường.
“Khoan đã”, tôi nói. “Cô ta chưa bao giờ cảm thấy không khỏe hay ốm đau vì cái này sao ạ? Chỉ tự dưng lăn ra chết thế thôi ạ?”
“Gần như chắc chắn chuyện đã xảy ra như vậy.”
“Thật bất công!” Tôi kêu lên, rồi nhận ra câu nói ấy nghe mới ngu ngốc làm sao. Nhưng không ngu ngốc chút nào. Cô ả giàu có thì quăng bỏ cuộc đời của mình đi, trong khi Sarah Jackson gắng hết sức cong mông làm việc để tạo dựng một cuộc sống tử tế với những gì mình có, lại lăn ra chết mà không hề được báo trước.
Mắt bác sĩ Leblanc tối đi khi ông bắt gặp ánh nhìn của tôi. Tôi chợt nhận ra ông đã chứng kiến điều này quá nhiều lần rồi. Ông quen với điều ấy, nhưng vẫn không chịu chấp nhận.
Ông tặng cho tôi nụ cười buồn bã. “Chào mừng đến với cái chết.”
Tôi đứng trong phòng lạnh cho đến khi cái lạnh ngấm vào xương, và các ngón tay của tôi bắt đầu trở nên cứng đờ. Cái chết thật bất công. Nó không đưa ra lời cảnh báo nào. Cái chết tấn công cả người tốt lẫn người xấu. Nó chẳng quan tâm quái gì.
Thời gian một tháng làm việc ở đây của tôi đã đến và đi mà chẳng có gì xảy ra. Chẳng ai trao cho tôi huy chương hay bằng khen vì thái độ tốt. Tôi nhận ra như thế cũng chẳng khác biệt lắm. Chẳng có gì thay đổi. Tôi vẫn là tôi của cách đây một tháng.
Mãi đến khi cơn đói bắt đầu cào cấu, tôi mới nhận ra mình là một con hâm đã bắt cơ thể phải chịu đựng quá mức bằng cái trò ngớ ngẩn đứng trong phòng lạnh thế này.
Sau khi đảm bảo chỉ còn một mình trong nhà xác, tôi thực hiện các thủ tục vớt não vào trong các bình muối dưa. Tôi chẳng cảm thấy chút day dứt nào khi lấy não của nạn nhân dùng thuốc quá liều, nhưng khi quay sang túi đựng cô nàng Jackson, tôi do dự. Cái chết của cô ấy đã đủ bất công rồi. Giờ tôi lại còn sắp mạo phạm cô ấy bằng cách biến bộ não của cô ấy thành bữa tối nữa sao?
Cơn đói lại cào cấu tôi. Nghiến chặt răng, tôi nhanh chóng chuyển bộ não của người phụ nữ ấy vào bình. Ừ, cái chết thật bất công. Và tôi sẽ không cho nó thêm bất kỳ lợi thế nào nữa.