Khi tôi kêu gọi các bậc phụ huynh đừng la mắng trẻ, đừng nói những câu mang tính mệnh lệnh với trẻ, hãy tạo bầu không khí vui vẻ, cởi mở trong gia đình… thì nhất định sẽ có rất nhiều câu hỏi được đưa ra: “Kỷ luật là làm gì?”, “Làm sao để biết mình dạy trẻ đúng cách?”,… Trong số các câu hỏi, có cả những câu hàm ý muốn lên án tôi. Về việc đó, tôi đã trả lời bằng cách đưa ra ba điều sau đây.
Đầu tiên, tôi mong các bạn thấm nhuần câu nói: “Trẻ con được nuôi dạy khi nhìn thấy lưng của cha mẹ”. Cùng ý nghĩa nhưng nếu nói ngược lại thì sẽ thành: “Con cái chính là tấm gương soi chiếu từ cha mẹ”.
Vì hầu như những lời nói và hành động của trẻ đều học từ cha mẹ mình, nên thông qua con trẻ, ta có thể biết được những người cha người mẹ ra sao. Có lẽ cha mẹ cũng phần nào cần phải xem xét lại chính mình khi nhìn thấy cách mà trẻ con đang thể hiện. Đáng tiếc là những bậc cha mẹ thường lại không thấy cái sai ở bản thân, và tất nhiên sẽ không thấy con cư xử giống mình là có gì sai để phải sửa. Một ví dụ rõ ràng là đối với những trẻ bị tự kỷ, khi bị người khác hoặc cô giáo nhận xét con mình có dấu hiệu của bệnh tự kỷ, cần phải nhờ bác sĩ tâm lý tư vấn thì phản ứng đầu tiên của các bậc cha mẹ (những người luôn thấy mình hoàn hảo) là phủ nhận con mình có bệnh, thậm chí còn tỏ thái độ gay gắt với người đưa ra lời góp ý, nhận xét. Điều đó khiến cho việc chữa trị trở nên khó khăn vì cha mẹ không thừa nhận trẻ có bệnh và cần phải nghiêm túc điều trị.
Thứ hai là, có những lúc cần biểu hiện suy nghĩ của chính các bậc phụ huynh cho trẻ thấy, hay là dạy trẻ hiểu về cách mà người khác nhìn nhận và suy nghĩ về vấn đề nào đó. Đó là sự kế thừa về văn hóa. Tuy nhiên, những điều đó chỉ nên dừng lại ở mức gợi ý chứ không nên là mệnh lệnh. Khi ta gợi ý, việc trẻ có tiếp nhận hay không là tùy ở trẻ, trẻ tự suy nghĩ về chúng, cho nên sẽ không cản trở trẻ trong việc phát triển tính tự giác. Ban đầu có lẽ hầu như trẻ sẽ chẳng chịu nghe theo những gợi ý của cha mẹ ngay, nhưng nếu lặp đi lặp lại những gợi ý, cũng như dẫn lối cho trẻ thì dần dần trẻ sẽ hình thành những cảm nhận, thấu hiểu và phát triển bằng cách biết cân nhắc, suy nghĩ về lập trường của cha mẹ, dần dần tự biết xem xét những hành động và lời nói của chính mình.
Hơn nữa, đối với các bậc phụ huynh, khi trẻ biểu hiện những hành động và lời nói tỏ vẻ vui mừng, hạnh phúc thì cần hưởng ứng bằng những biểu hiện như là: “Đúng là vui quá ha!”. Và khi trẻ gặp phải những điều khó khăn, rắc rối thì cũng cần thể hiện những cảm xúc đồng cảm với trẻ, như là: “Thiệt là cực ghê!”. Không phải bằng cách la mắng mà cha mẹ và con cái có thể gắn kết cảm xúc được với nhau thì trẻ nhất định sẽ có thể cảm nhận được tình cảm của cha mẹ.
Những điều này sẽ không mang lại kết quả ngay lập tức mà trẻ sẽ dần dần biết tiết chế những lời nói và hành động của mình. Khi cha mẹ không gây khó dễ, khiến trẻ bối rối thì tự khắc trẻ sẽ tự giác suy nghĩ, cân nhắc.
Đây chính là khả năng tự kiểm soát và nó hoàn toàn khác với việc kiểm soát mang tính lệ thuộc vào người khác, chẳng hạn như trẻ chỉ làm để không bị la mắng, để không ai để ý đến. Đối với trường hợp trẻ đang kiểm soát lời nói và hành động của chính mình vì một điều gì đó, khi không có ai la mắng, trẻ sẽ thực hiện những hành động quậy phá, làm những việc không tốt khi không ai nhìn thấy. Nói chung, nếu nuôi dưỡng một trái tim có khả năng đồng cảm với cảm xúc của đối phương, một trái tim biết thấu hiểu ở trẻ, thì dần dần những hành động thể hiện tính tự giác rõ ràng ngày càng tăng lên.
Như những gì đã đề cập từ trước, chúng ta đều hiểu rằng không cần thiết phải thực hiện kỷ luật nghiêm khắc đối với trẻ. Càng kỷ luật nghiêm khắc thì càng không thể nuôi dưỡng trái tim biết thấu hiểu và tính tự giác ở trẻ.
Tôi có ví dụ về trường hợp của một em học sinh trung học phổ thông đã bắt đầu lầm đường lạc lối từ thời trung học cơ sở, thường hay ngủ bên ngoài không về nhà và chạy mô tô đi rong ruổi khắp nơi. Nhưng cha mẹ của em ấy đã làm đúng như những gì tôi hướng dẫn là không la mắng mà hết sức dịu dàng, ân cần khi con trở về. Chắc chắn khi nhìn thấy con mình về nhà, cha mẹ sẽ ngay lập tức muốn thốt lên những lời lẽ khiển trách như: “Đi đâu mà giờ mới về hả?!”.
Người mẹ cần phải thật sự khéo léo kiềm chế cơn nóng giận, tạo nên sự ấm áp, thoải mái trong gia đình, để con cái cảm nhận được và nghĩ rằng quả thật nhà mới là nơi tuyệt vời nhất, cha mẹ thật sự thấu hiểu cho mình,… Những điều đó trong mắt người cha thường là sự nuông chiều, nhưng mất bốn năm gia đình mới dần trở nên ổn định và em ấy trở thành một thanh niên đầy triển vọng.
Trường hợp của bé sau đây, cha bé là người theo trường phái tôn trọng kỷ luật, không phải chỉ chính mình mà còn yêu cầu cả vợ phải làm theo những quy tắc, kỷ luật nghiêm khắc. Và người vợ vì tuân theo những kỷ luật ấy mà không cho phép bản thân được thư giãn, nghỉ ngơi, và kết cục là không thể hình thành mối dây gắn kết tình cảm giữa cha mẹ và con cái, điều này trở thành nguyên nhân gây chia cách gia đình. Tuy nhiên, có những trẻ thuở nhỏ cư xử ngoan ngoãn và cha mẹ rất tự hào, nhưng khi bắt đầu lạc lối thì ngày càng có nhiều hành vi nổi loạn, như dễ dàng tức giận, thường hay đánh bạn, hỗn hào,… Rõ ràng tính kỷ cương trong cách hành xử của trẻ khi nhỏ cũng chỉ là sự che phủ bên ngoài của tính cách thật sự bên trong. Có thể ví trẻ như là chú chim bị nhốt trong lồng bằng vàng, nhưng khi đến tuổi dậy thì trẻ sẽ khao khát tìm kiếm sự tự do, và một khi rời khỏi gia đình chính là đã được giải phóng khỏi chiếc lồng.
Điều thứ ba là cần tạo cơ hội cho trẻ được phụ giúp công việc trong nhà. Khi trẻ còn nhỏ xíu thì tập cho trẻ dọn dẹp đồ trên bàn ăn, lau dọn; và khi trẻ học tiểu học thì tập cho trẻ phụ nấu cơm, từ đó trẻ biết mình cần làm những việc gì trong gia đình. Nói cho cùng, đó là những việc làm tạo nên sự phối hợp giữa các thành viên trong gia đình chứ không phải là làm để nhận tiền thưởng. Nếu tạo cho trẻ thói quen nhận tiền thì sẽ có những trẻ không phụ giúp gì nếu không có tiền. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là chúng ta cần giữ vững nguyên tắc phụ giúp công việc là vì chính gia đình mình chứ không phải vì tiền.
Nếu biết cách khuyến khích thì trẻ sẽ cảm thấy làm việc nhà phụ mẹ rất thú vị. Chẳng hạn như, khi mẹ làm bánh, trẻ được giao nhiệm vụ trang trí bằng cách rải các hạt sôcôla trên mặt bánh. Cùng mẹ trang trí và làm bánh sẽ khiến trẻ có cảm nhận về thành tựu vì đã làm được việc gì đó. Nếu được mẹ khen trang trí bánh đẹp, trẻ càng cảm thấy hạnh phúc. Quan trọng là tình cảm giữa hai mẹ con được nuôi dưỡng và ngày càng gắn kết hơn.
Mặt khác, trẻ con sẽ có những lúc thể hiện là mình muốn tự giác tham gia phụ việc nhà, đây chính là cơ hội. Khi cho trẻ phụ một tay, chắc chắn không ít lần chẳng mang lại hiệu quả, làm hư hỏng đồ đạc và tốn thời gian, công sức của người mẹ. Những lúc như thế có thể người mẹ sẽ tỏ thái độ không muốn cho trẻ làm và nói rằng: “Con nít ra chỗ khác chơi!”, hay “Toàn là phá không hà!”, lúc này các mẹ đã để lỡ một cơ hội tốt để giáo dục trẻ. Những người mẹ như thế sẽ không cho con mình phụ giúp để có thể thuận tiện và tự mình làm việc dễ dàng hơn, nếu trẻ không nghe lời, không tránh ra thì sẽ quát mắng. Đó là những người mẹ không biết thấu hiểu, bởi chẳng ai mới bắt đầu học mà có thể làm tốt. Khi còn bé, các bà mẹ chẳng phải cũng nhiều lần làm hư hỏng đồ đạc đấy thôi, vậy tại sao lại la mắng trẻ nhỉ? Các bà mẹ đã quá coi trọng kết quả (tức là bé có làm được việc hay không) mà quên rằng cái quan trọng là quá trình bé giúp mẹ làm việc, rèn luyện cho bé kỹ năng làm việc nhà, và trên hết là nuôi dưỡng tình cảm mẹ con khi cả hai cùng làm chung một việc gì đó thật vui vẻ.
Và việc người cha cũng góp sức làm việc nhà sẽ trở thành hình mẫu để những bé trai noi theo, nhưng có không ít trường hợp các ông bố chẳng thèm động đến việc nhà và vô tình đã trở thành hình mẫu một người đàn ông không tốt.
Hơn nữa, việc kiểm soát những tham vọng về vật chất và tiền bạc là một trong những kỷ luật cần dạy trẻ thật rạch ròi. Nếu cứ chiều theo những gì trẻ mong muốn mãi thì trẻ sẽ trở nên cố chấp, bướng bỉnh, và nếu không thể đáp ứng được những mong muốn ấy thì trẻ sẽ trở nên bực tức, phẫn nộ. Kỷ luật cần bắt đầu từ lúc trẻ một tuổi.
Ví dụ, khi trẻ đòi ăn quà bánh không đúng lúc thì chúng ta hãy đưa ra lời dỗ dành nhẹ nhàng như: “Chờ tới lúc ăn được nhé con”. Phụ huynh hãy vừa nói dỗ dành, vừa giữ vững kỷ luật chứ không nên la mắng khi trẻ mếu máo. Tôi thường thấy cảnh cha mẹ quát con khi con khóc: “Nín ngay, có nghe không!”. Không đứa trẻ nào đang khóc mà có thể nín ngay được. Đúng là làm khó trẻ. Trẻ không nín khóc ngay được thì cha mẹ lại càng quát to, thậm chí đánh trẻ. Thật đáng thương cho trẻ khi có những cha mẹ thiếu cảm thông như thế.
Vì thế, dù trẻ có khóc, có quấy thế nào đi nữa thì việc người cha người mẹ kiên nhẫn và tiếp tục dùng thái độ nhẹ nhàng, đưa ra những lời gợi mở là hết sức quan trọng. Chúng ta không cần ép trẻ phải có tính kỷ luật theo kiểu đưa vào khuôn khổ.
Phương pháp giáo dục không la mắng vẫn được đề cao suốt hơn bốn mươi năm nay. Chúng ta đều biết rằng kỷ luật nghiêm khắc, la mắng và đánh trẻ sẽ hủy hoại mối quan hệ tình cảm giữa cha mẹ và con cái; và từ tuổi dậy thì trở đi sẽ phát sinh nhiều hệ lụy. Đối với việc hình thành nhân cách ở trẻ, phương pháp giáo dục quan trọng hơn cả chính là để cho trẻ khắc sâu vào trái tim hình ảnh ấm áp, yêu thương của cha mẹ. Để làm được như thế thì đầu tiên, các bậc phụ huynh phải là những người cha người mẹ rộng lượng, yêu thương và biết cảm thông đối với con cái.
Dù nói vậy nhưng đương nhiên chúng ta không thể ngay lập tức trở thành người cha người mẹ rộng lượng. Chắc chắn không thiếu những lúc vô tình buông lời la mắng trẻ. Những lúc như thế, mong các bạn hãy nhớ tới ví dụ mà tôi sẽ kể sau đây.
Đó là vào dịp tôi nghỉ lại ở một nhà trọ trên núi. Phòng bên cạnh là phòng của một người cha và đứa con trai học lớp một. Bé trai đó mặt mũi tươi vui và chơi đùa rất náo nhiệt nên mang đến ấn tượng rằng bé này được nuôi dưỡng rất tốt. Khi tôi trò chuyện cùng cha của bé thì cha bé có nói: “Tôi là người nóng nảy nên hay đánh con. Sau khi đọc sách của thầy thì tôi đã hiểu ra việc la mắng, đánh con cái là không tốt, vậy mà trước giờ tôi lại như thế”. Những trẻ bị cha la mắng, đánh đập thì mỗi khi ở cùng cha sẽ có phần nào cảm thấy căng thẳng, không vui và luôn phải để ý đến sắc mặt của người lớn, nhưng nếu không phải dè chừng những điều đó thì trẻ vẫn thoải mái, thong dong. Tôi cũng từng cho rằng trẻ thoải mái như vậy có lẽ là vì người cha đã nhận ra và sửa đổi, nhưng điều đó lại không thuyết phục cho lắm.
Tuy nhiên, tôi đã hiểu lý do vì sao. Khi ăn trưa xong, tôi có cùng người cha đó chơi cờ Shogi. Lúc đó, bé trai xuất hiện và xin phép cha cho đi câu cá. Bé đã chuẩn bị đầy đủ những gì cần thiết để câu cá. Người cha thấy vậy liền bảo: “Ba nghe trên radio thông báo sẽ mưa nên con nhớ mang theo ô nhé!”, và chỉ tay đến chỗ cất ô. Những chiếc ô đó là ô dành cho người lớn, trẻ em dùng sẽ khá là khó khăn nên cậu bé không muốn mang theo. Bé đã năn nỉ cha rằng: “Không sao đâu cha, con sẽ về trước khi mưa mà”. Thông thường trong những trường hợp như thế, chúng ta sẽ bảo rằng: “Có nghe lời ba không thì bảo!”, nếu không nghe theo thì chắc chắn sẽ la mắng trẻ. Nhưng người cha này tiễn con đi và nói rằng: “Đi về sớm con nhé”.
Và khoảng một tiếng sau, theo đúng như dự báo thời tiết thì trời bắt đầu mưa và dường như càng lúc càng dữ dội. Người cha tạm dừng ván cờ, bảo rằng: “Tôi đi đón thằng bé chút nhé”, rồi lập tức cầm ô và vội vàng đi. Tôi đang quan sát cơn mưa dữ dội trút xuống thì chẳng mấy chốc hình dáng hai cha con đã xuất hiện ở trước khu vườn. Bên dưới chiếc dù mà người cha đang cầm là đứa con đã ướt sũng. Tôi mừng rỡ vì hai cha con an toàn quay về và cất tiếng gọi lớn: “Hai cha con về rồi à!”, nhưng cả hai đều không nghe thấy và quay về phòng.
Lúc đó, tôi có dự cảm rằng người cha sẽ đánh đứa trẻ, tôi thầm nghĩ nếu trẻ bị đánh phạt thì phải vào can ngăn hai cha con. Và như dự đoán, tôi nghe thấy tiếng như một cú tát nên nhanh chóng sang phòng bên cạnh xem thế nào. Các bạn biết sao không? Hai cha con đang đứng trong tư thế đối mặt với nhau, và người cha ghé lại gần rồi nói: “Con biết lỗi chưa!”. Lúc đó, các bạn nghĩ bé sẽ nói gì? Bé đã trả lời bằng một giọng dõng dạc: “Con biết rồi ạ!”.
Khi nghe xong câu trả lời, người cha đi đến bếp của nhà trọ hứng nước nóng ở bồn rửa lớn để mang về phòng. Rồi người cha dùng chiếc khăn còn ấm lau tóc ướt cho bé thật dịu dàng, rồi cởi đồ ướt ra, từ từ lau mình cho bé. Từ đó, tôi đã học thêm được một điều, chính vì có cách đối xử yêu thương và ấm áp đó, cho dù có đánh trẻ thì cũng không gây tổn thương trong trái tim trẻ. Đó thật sự là một người cha biết thấu hiểu. Đứa trẻ cũng hiểu cha vì lo lắng, quan tâm mình nên đánh mình để mình không quên bài học của ngày hôm đó: một phút chủ quan cũng có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Đôi khi trẻ cũng cần học một bài học và tôi nghĩ người cha ấy cố tình dạy con học bài học này khi không khăng khăng bắt con phải mang theo ô.
Tại trại hè của chúng tôi, hằng năm đều có thể phát hiện ra những đứa trẻ mang trái tim ấm áp, thấu hiểu. Câu chuyện về cậu bé học lớp hai sau đây vẫn luôn hiện lên rất rõ trong đầu tôi.
Ở hội trại có 1% là trẻ khuyết tật được dẫn đến sinh hoạt. Và năm đó, có một bé trai học lớp bốn gặp khiếm khuyết trong việc hoạt động tay chân đã đến tham gia. Vào ngày leo núi, bé trai ấy cũng rất muốn được leo. Nếu trẻ đã có mong muốn thì cho dù khiếm khuyết tay chân chúng tôi cũng tạo cơ hội cho trẻ được tham gia. Tuy nhiên, cần có một người lớn theo sát cho nên tôi đã quyết định sẽ đảm nhận vai trò này. Cứ một lúc là phải dùng sức để nâng cơ thể của bé vượt qua đoạn khó leo nên đương nhiên chậm lại phía sau so với những trẻ khác. Tôi cần phải vận dụng hết sức lực của mình và cố gắng tạo cho trẻ cảm giác thú vị khi leo núi, nhưng trong đầu chưa nghĩ ra được cách nào cả.
Khi xuống xe buýt và bắt đầu đi vào đoạn đường leo núi, có một bé trai học lớp hai đã tiến lại gần tôi và hỏi rằng: “Bạn ấy có thể đi cùng không ạ?”. Tôi đã không ngần ngại mà đáp rằng: “Được chứ con!”, nhưng thật ra tôi hoàn toàn chưa biết làm sao để cậu bé học lớp bốn ấy cùng tham gia và tôi cần phải làm gì đây…
Tuy nhiên, bé trai lớp hai đã bước đến chỗ của bé trai khuyết tật và dắt tay đi, rồi cả hai cùng nhau hát những bài hát thật vui vẻ. Không biết hai bé nói gì với nhau, thỉnh thoảng lại cười với nhau, tôi thì cứ đi theo sau hai đứa trẻ. Rồi khi bé trai khuyết tật bị vấp ngã, so với những đưa trẻ khác thì bé đã bị chậm lại phía sau. Và do bé đã thấm mệt nên chúng tôi quyết định dừng lại ăn. Ngay cả khi đó, tiếng cười của cả hai bé cũng không dừng lại. Sau khi ăn xong, chúng tôi quyết định quay về, không đi tiếp nữa. Kể cả lúc xuống núi hai bé vẫn cùng nhau hát ngân nga, đùa giỡn, thật sự trông rất vui vẻ. Nhờ có cậu bé lớp hai kia mà tôi chẳng vất vả gì trong suốt chặng leo núi.
Hôm sau, khi gặp mẹ của bé trai lớp hai ấy, tôi đã hỏi thăm về cách mà mẹ nuôi dạy bé. Người mẹ đã bảo rằng vẫn nuôi dạy hết sức bình thường, nhưng vì bé thích nên mẹ thường hay thể hiện sự tán dương bằng những cử chỉ yêu thương, và cho đến bây giờ thỉnh thoảng bé vẫn hay chui vào nệm của mẹ và mẹ vẫn cho phép điều đó. Và người mẹ có hỏi tôi: “Tôi chiều chuộng trẻ như vậy có ổn không ạ?”. Thật sự điều đó đã truyền cho tôi cảm giác hứng khởi, thích thú vô cùng.
Hơn nữa, người mẹ này có ba đứa con, tức là sau bé trai lớp hai này còn có hai em nữa cho nên khó mà có thời gian để làm nhiều việc mình mong muốn. Nhưng người mẹ này thường dẫn con cùng tham gia các hoạt động tình nguyện vì trẻ em khuyết tật. Tôi không thể có lý giải nào ngoài việc chính trái tim ấm áp, biết cảm thông của người mẹ đã dạy cho con trai mình cũng có một trái tim tuyệt vời như vậy.
Khi tôi đặt ra câu hỏi: “Khi nào chúng ta sẽ la mắng trẻ?”, thì nhận được câu trả lời rằng: “Khi đang vội, đang gấp nhưng bé lại cứ rề rà thì sẽ dễ lớn tiếng với bé, nhưng ngày xưa cha tôi (ông của cháu) rất yêu thương con cái và tôi luôn ghi nhớ điều đó, cha tôi cũng không la mắng anh em chúng tôi, cho nên khi sinh bé ra tôi cũng tự nhủ rằng không được vội vàng bắt bé phải theo kỷ luật khắt khe”. Người mẹ có cách dạy con rất cởi mở là do có sự ảnh hưởng lớn từ cha của mình và cũng hiểu rằng cần phải truyền cho con những điều ấy.
Việc không vội vàng đưa trẻ vào kỷ luật mang một ý nghĩa cực kỳ to lớn. Theo những nhà tâm lý học về trẻ em, từ trước đến nay, những việc như tự lập trong thói quen sinh hoạt là những việc chắc chắn không thể nào vội vàng được, và không phải kỷ luật là điều tạo nên những đứa trẻ tốt.
Việc “rèn sắt thép khi còn đang nóng”, cũng như siết chặt kỷ luật trong khi trẻ còn nhỏ dường như đang trở thành cách đi chính trong việc nuôi dạy trẻ theo kiểu Đức. Nhưng tôi lại hoài nghi về điều đó.
Đối với cách suy nghĩ là phải kỷ luật nghiêm khắc, tôi cho rằng chúng ta đang dựa trên thuyết nhìn nhận bản chất của con người vốn là xấu xa. Theo thuyết này, con người vốn dĩ mang một phần tính cách xấu xa, nên ngay từ nhỏ phải đưa vào khuôn khổ kỷ luật để kìm lại phần tính cách xấu xa ấy.
Tôi đã và đang thân thiết với rất nhiều trẻ con, tôi cũng nuôi dạy ba đứa con và chơi cùng bảy đứa cháu của mình. Và tôi có lòng tin rằng trẻ con (hay chính con người) vốn dĩ là thiện, tuổi càng nhỏ thì càng giữ được sự thuần khiết, tốt đẹp. Vì vậy, tôi mong rằng tính cách tốt bẩm sinh từ khi sinh ra sẽ được nuôi dưỡng mà không bị bóp méo.
Hơn nữa, đối với tính sáng tạo của con người, nhiều nhà nghiên cứu bày tỏ sự tiếc nuối rằng trẻ em sinh ra đã mang tính sáng tạo rất phong phú, nhưng vì sự giáo dục kìm hãm tính sáng tạo mà tính sáng tạo bị mất đi khi trưởng thành. Bởi vì tính sáng tạo sẽ tỏa sáng cùng với sự phát triển tính tự giác, nên cách giáo dục kìm hãm tính tự giác sẽ cản trở sự phát triển tính sáng tạo. Có một điều trong cách giáo dục đó chính là sự kỷ luật đã rập khuôn những đứa trẻ. Từ đây, tôi chỉ muốn thốt lên rằng: “Hãy bỏ đi tất cả kỷ luật!”. Đối với trẻ em, cần cho trẻ thật nhiều, thật nhiều sự tự do.
Có rất nhiều người đang nhầm lẫn giữa việc để cho trẻ được tự do và việc từ bỏ trách nhiệm đối với trẻ, tức bỏ mặc trẻ. Không thể chấp nhận được việc từ bỏ trách nhiệm đối với trẻ bởi vì điều đó sẽ tạo nên những đứa trẻ bừa bãi, không biết thế nào là kỷ luật, phép tắc. Thông qua việc để cho trẻ được tự do, trẻ sẽ được nuôi dạy về tinh thần trách nhiệm.