Lại một lần nữa chúng tôi quá gần đường cái nên không dám đốt lửa. Nhưng chúng tôi không thiếu đồ ăn. Chúng tôi ăn hạt và rau tươi, và còn đủ quả hạch cho tôi nhét vào túi gia vị của Mara, nghĩ rằng chúng sẽ tạo nên hương vị thơm ngon hơn cho món xúp hay thịt hầm sau này.
Mara ăn vào bao nhiêu đều nôn ra hết.
Nhưng sau đó cô cũng bớt chóng mặt, cuối cùng Belén cũng chịu cho cô ngủ. Tôi bắt anh ngủ, Bão và tôi sẽ canh gác.
Mặt trời lặn xuống thấp sau đường chân trời. Tôi tập lại các bài tập của Hector. Một vài tư thế đòi hỏi sự thăng bằng và tập trung cao độ khiến tôi quên mất mình thất vọng ra sao khi bị giữ chân lại đây trong khi anh càng ngày càng xa tôi.
Tôi toát hết mồ hôi khi tập xong, và thở phì phò. Nhưng tôi không thể ngồi yên. Bão thích thú quan sát, khi tôi đi lại trong khu trại. Có lẽ tôi sẽ đi lại cả đêm, hoặc tập sử dụng dao găm. Belén và Mara chắc chắn có thể ngủ cho lại sức.
Mây che trăng. Nhiệt độ đột ngột giảm, và tôi rùng mình. Áo choàng được gấp gọn đặt trên túi ngủ, nhưng tôi chẳng nhìn thấy đường. Tôi đi theo cảm giác, và vấp phải một phiến đá sét.
“Bão ơi?” Tôi gọi nhỏ.
“Đúng, một cơn bão lớn đấy,” ông đáp nhỏ.
Những tia chớp xẹt ngang trời ở phía đông, nhờ vậy mà tôi tìm được đường. Mũi giày tôi tìm được túi ngủ, và tôi cúi xuống, lần tìm áo choàng. Nó đây rồi! Tôi khoác lên vai và thắt nút ở cổ.
Tôi cố nhớ lại: Chúng tôi cắm trại trong một lòng suối cạn chăng? Lũ quét có thể cuốn trôi chúng tôi không? Đường cái chính xác ở hướng nào? Và tôi có thể tìm ra nó trong bóng tối mịt mùng này, nếu cần hay chăng?
Mara bị thương, nhiệt độ lại đang giảm nhanh chóng, có lẽ cũng đáng cho chúng tôi liều lĩnh nhóm lửa.
Tôi sờ quanh tìm túi hành lí, cho tay vào trong lấy hộp đánh lửa. Tôi đang lần tìm một cành cây hoặc một quả thông khô, gì đó để nhóm lửa tìm củi đốt, thì một giọt nước mưa to tướng nhỏ trúng má.
Chớp lại rạch ngang trời, nối tiếp bởi tiếng sấm nổ đì đùng. Lũ ngựa khụt khịt và gõ vó.
“Chúng ta phải tìm chỗ trú,” Bão nói. “Ngay lập tức.”
“Mưa một chút đâu có chết ai,” tôi bảo.
“Cô chưa thấy mưa đá bao giờ à? Đôi lúc ở vùng núi này, mưa đá rơi xuống phải to bằng nắm tay tôi.”
Tôi trợn tròn mắt. Không, tôi chưa từng thấy cảnh tượng đó. “Belén!” Tôi hét. “Mara! Dậy ngay!”
Tôi nghe tiếng lục xục, tiếng rên ngái ngủ, và một tiếng chửi thề.
“Có người đến à?” Belén nói. “Cô không nên hét để tôi còn...”
“Có bão. Có thể là mưa đá. Chúng ta cần tìm chỗ trú.” Mưa đang dày hạt hơn, tạo thành bản hòa ca những tiếng trống đủ mọi sắc thái khi chúng rơi vào lá, đất và đá. Có tiếng ngựa hí.
“Cây dương,” Mara nói. “Tôi từng cho lũ cừu náu dưới một cây dương khi bão đến quá nhanh khiến tôi không kịp đưa chúng về nhà.”
“Tôi sẽ xem lũ ngựa,” Belén nói. “Trốn dưới cây đi. Căng túi ngủ lên các cành cây bên trên.”
Túi ngủ sẽ không ngăn được nước mưa, nhất là mưa kiểu này. Nhưng có lẽ chúng sẽ bảo vệ chúng tôi khỏi mưa đá.
Chúng tôi vội làm theo lời Belén, đâm sầm cả vào nhau trong bóng tối. Cành cây la đà, và chúng tôi có thể – dù miệng thì chửi rủa còn đầu gối thì trầy xước vì quệt vào các cành cây – căng túi ngủ trên đầu. Belén dẫn lũ ngựa sang phía bên kia cây và buộc lại. Không có túi ngủ che cho chúng, nhưng chắc chúng sẽ qua được đận này.
“Những lúc như thế này,” Bão bực bội, “nếu có ai trong chúng ta biết dùng Thánh thạch gọi lửa thì hay biết mấy.”
“Không gì sáng lên nổi đâu,” tôi nói. “Nhất là trong bão lũ.”
Nhưng tôi không thể ngừng nghĩ về lời ông vừa nói. Chúng tôi cùng nhau run rẩy trong khi mưa ào ào đổ xuống tấm bạt bằng túi ngủ của chúng tôi. Tôi tập trung cầu nguyện, xin Chúa ban cho sự khôn ngoan và ấm áp, và khi Thánh thạch truyền hơi ấm khắp cơ thể, tôi băn khoăn về chuyện gọi lửa, về điều tôi phải làm.
Người thú luôn dùng máu để đánh thức zafira và kéo nó ra khỏi lòng đất. Và người thú phóng lửa từ viên đá nằm trong lá bùa hoặc gắn trên cây trượng. Tôi không thể làm giống họ. Sao tôi có thể phóng lửa từ bụng chứ? Quần áo tôi bị bén lửa thì sao? Còn da tôi nữa?
Một trong những nỗi buồn bực lớn nhất khi là người được chọn cứ bốn thế hệ một lần đó là không ai cho tôi biết tôi phải làm gì. Tôi chỉ có những văn kiện đã hàng thế kỉ hướng dẫn mình, chúng thì được những nhà cải cách và tu sĩ uyên bác nghiên cứu, cho rằng chúng có ý nghĩa gì dựa trên niềm hi vọng chủ quan của họ. Không ai cảm nhận được sức mạnh của Chúa chảy trong mình; không ai biết rõ.
Tôi thì thấy khi Chúa muốn nói chuyện với loài người, ngài nên nghĩ ra kế hoạch tốt hơn.
Tiếng mưa rơi chuyền từ tí tách sang như thủy tinh vỡ; mưa đá đã đến.
Túi ngủ trũng nước mưa. Nước nhỏ xuống mũi, làm ướt áo choàng của tôi, và tôi có cảm giác mình sẽ không bao giờ được khô ráo. Hạt mưa đá nảy và vỡ ra xung quanh chúng tôi. Một viên lớn lăn đến mũi giày của tôi, và tôi nhặt lên. Nó rắn đe, to bằng nửa nắm tay, bám đầy đất bẩn.
Ngựa hí, tôi giật nảy mình, đập đầu vào một cành cây.
“Chúng ta không thể làm gì giúp nó,” Belén nói to át âm thanh.
Tôi ngồi bó gối dựa vào thân cây, giữa những người bạn. Tôi thành tâm cầu xin hơi ấm và sự dễ chịu. Xin Chúa, chúng con không thể mất thêm một con ngựa nào nữa. Xin Ngài hãy bảo vệ lũ ngựa. Hãy cho cơn bão sớm tan. Ngài muốn con học cách dùng sức mạnh hủy diệt của viên đá ư? Nếu vậy, con cần được chỉ dẫn. Bão cũng cần Ngài giúp. Con không biết Ngài có đáp lại lời cầu nguyện của người Invierno không. Thực ra, con cũng không biết Ngài có trả lời con không, nhưng nếu có...”
Tôi gục đầu vào vai Mara, ngủ thiếp đi trong lúc cầu nguyện.
Tôi thức giấc khi ánh mặt trời phản chiếu trên những vũng nước, những viên mưa đá bẩn thỉu đang tan dở dưới bóng râm của những tảng đá, trong tiếng sẻ đá hót như thể đây là ngày đẹp nhất đời mình.
Ngoại trừ bị trật cổ ra thì tôi thấy thoải mái và tràn trề năng lượng. Tôi đột nhiên cảm thấy biết ơn cơn bão bất chợt. Nó ép tôi phải nghỉ ngơi mà vào lúc khác, lí trí và lòng kiên nhẫn sẽ không cho phép tôi làm thế.
Con ngựa của Mara mang một vết thương hở đang đổ máu đầm đìa trên cổ, nhưng có vẻ không sao. Mara lau vết thương và bôi thuốc mỡ – chính là loại cô vẫn dùng hằng ngày.
Trước nay tôi vẫn tin con ngựa nào cũng giống nhau. Tôi luôn nghĩ chúng là những con vật to lớn bốn chân xấu tính, có bộ nhá to đáng sợ nên không để ý đặc điểm của chúng có khác nhau. Ví dụ, con ngựa của Mara màu nâu đỏ, trừ một sọc trắng dọc mũi thì rất hợp với tính tình vui vẻ thường trực. Con ngựa to lớn, cần cù của tôi có bộ lông nâu sậm gần như đen trong màn đêm, có cái bờm phóng khoáng nhất tôi từng thấy. Cái mái bờm xờm của nó che mất con mắt phải và dài gần tới miệng. Có lẽ lí do nó di chuyển chậm chạp là vì không trông thấy đường.
Con ngựa của Mara dụi đầu vào ngực cô. Cười cười, Mara hôn giữa đôi mắt ngờ nghệch, to tròn của con vật, rồi thì thầm gì đó.
“Cô có đặt tên cho nó không?”
“Có chứ! Nó là Hoa Nhài.”
Tôi nhăn nhó. “Nhưng hoa nhài rất thơm và đẹp.”
Mara cười. “Cô có đặt tên cho con ngựa của mình không?”
“Tên nó là Ngựa.”
Cô trợn mắt. “Nếu cô muốn quen với nó, cô phải học ngôn ngữ của nó. Việc này bắt đầu bằng một cái tên hay.”
“Được,” tôi vờ ngẫm nghĩ. “Đần nhé? Hay Ị Té Re?”
Mara lắc đầu.
Chúng tôi trải túi ngủ dưới nắng trong khi ăn qua loa cho xong bữa sáng với hạt thông, thịt khô và bánh mì nhạt. Túi ngủ vẫn ướt khi chúng tôi cuộn lại và đeo trên túi hành lí. Tôi sẽ bảo họ nghỉ chân sớm và hong khô tiếp. Hoặc có lẽ tối nay chúng tôi sẽ ngủ thẳng trên nền đất. Điều đó chẳng thể tệ hơn ngủ co ro bó gối dưới cây dương trong một cơn bão đột ngột đến.
Belén dạy tôi cách đóng yên cho Ngựa, và tôi hứa lần sau sẽ thử. Chúng tôi lên ngựa, Belén dẫn đầu và chẳng mấy chốc chúng tôi đã trở về đường cái.
Mặt đất trở nên gồ ghề khi chúng tôi đi theo một loạt những con đường dốc đứng men vòng theo núi. Chân ngựa mảnh khảnh, tôi sợ chúng sẽ gãy vì những gờ đá chìa ra sắc nhọn. Nhưng lũ ngựa cần mẫn bước đi chẳng nề hà, và sau một lúc, tôi quên luôn không lo lắng nữa.
Chúng tôi dừng lại ăn trưa trong một thung lũng nhỏ xanh tươi, bị chia làm đôi bởi một con suối trong vắt như pha lê. Cá hồi ẩn dưới làn nước um tùm cỏ khi chúng tôi đến gần, và Mara reo lên. “Chúng ta sẽ có cá cho bữa trưa!” Cô nói. “Tôi sẽ chỉ mọi người cách bắt cá bằng tay. Cá hồi dễ làm ruột và xiên nướng nhất, và sau đó...”
Tôi hình dung Hector bị lôi đi trong vùng núi non hiểm trở, cách chúng tôi vài tuần. Tôi dám cá bằng vương miện Thánh thạch rằng anh đang âm mưu bỏ trốn, cố làm chậm hành trình của chúng. Chúa ơi, tôi hi vọng anh được đối xử tốt. Nếu anh bị thương, hoặc bị bỏ đói thì sao? “Chúng ta sẽ cho lũ ngựa uống nước, rồi đi tiếp. Chúng ta sẽ nghỉ khi cắm trại tối nay.”
Mara nhìn đi chỗ khác. “Được.”
Cảm giác tội lỗi dâng lên trong ngực tôi. Tôi lại ép mọi người thái quá. Nhưng tôi không biết phải làm gì khác.
Vừa đi Bão vừa nói con đường này đông người qua lại, vì đây là một trong hai tuyến đường giao thương duy nhất giữa Joya d’Arena và những ngôi làng tự trị ôm ấp những sườn núi cao. Nhưng nhiều ngày từ khi bị cướp đường tấn công, chúng tôi không thấy bóng dáng một ai.
“Chiến tranh sắp nổ ra,” Mara nói. “Không ai dám rời khỏi dãy núi an toàn này để buôn bán. Họ sợ bị bắt đi lính cho bá tước.”
“Tôi không ngạc nhiên nếu ông ta bắt lính ở vùng lãnh thổ không thuộc về mình,” tôi nói. Eduardo đến từ một gia đình quyền quý giàu tham vọng, và qua nhiều thế kỉ, dòng họ ông ta đã vài lần âm mưu thôn tính những ngôi làng tự trị vào bá quốc Montamayor. Nhưng họ lắm mưu mẹo, ẩn dật, và độc lập, thành thử việc quản lí họ quá nhiêu khê.
“Chúng ta nên kiếm thêm đồ dự trữ tại các ngôi làng tự trị,” Bão nói với sau lưng. “Giờ đã có ngựa, chúng ta có thể mang được nhiều đồ hơn.”
Bão càng ngày càng thoải mái. Tôi ngoái nhìn ông và nói, “Tôi có thể bảo Mara đi mua vài thứ, nhưng không chắc ở đó an toàn.”
“Chắc chắn là không an toàn rồi,” ông bảo. “Nhưng sẽ không ai nhận ra cô. Đến cả tôi cũng có thể đi lại trong những ngôi làng đó. Đó là nơi duy nhất mà người nước cô và nước tôi có thể sống chung tương đối bình yên.”
Tôi kéo cương Ngựa và xoay người trên yên để nhìn ông. “Thật chứ?”
“Tôi luôn nói thật.”
Tôi nhíu mày. “Gia sư cũ của tôi, thầy Geraldo, dạy tôi tất cả về các ngôi làng tự trị. Ông ấy chưa từng đề cập đến hòa bình với Invierno.”
Bão nhún vai. “Tôi sẽ không gọi đó là hòa bình với Invierno. Tôi dám chắc Invierno thích sáp nhập và kiểm soát vùng đó như lão bá tước phản quốc của cô.”
Tôi quay đầu nhìn thẳng, giục Ngựa đuổi theo Mara và Belén. Nó đi nhanh vài bước rồi lại chậm rề rề như thường lệ, nhưng tôi đang mải nghĩ nên không để ý.
Thầy Geraldo nói những ngôi làng tự trị là nơi nguy hiểm, là thỏi nam châm hút thương nhân chợ đen, lính đào ngũ và tội phạm bị truy nã. Cũng dễ hiểu nếu chúng thu hút những hạng người tương tự từ Invierno. Nhưng lạ là thầy chưa từng đề cập tới sự hiện diện của Invierno ở đó.
Hoặc có lẽ không kì lạ lắm. Chỉ gần đây tôi mới nhận ra thầy Geraldo giấu tôi nhiều điều, nhất là những gì liên quan tới Thánh thạch. Người gia sư già của tôi không phải người duy nhất. Còn có Alodia chị tôi. Bà vú Ximena. Thậm chí cả người chồng yểu mệnh và tốt tính Alejandro. Tất cả đều âm thầm giấu nhiều chuyện khỏi người được Chúa lựa chọn – là tôi. Tôi hoàn toàn không biết gì về những kiến thức quỷ tha ma bắt đó. Họ tin Chúa muốn tôi không biết gì, dựa trên đoạn dịch một chương chứa nội dụng rất mơ hồ của Scriptura Sancta.
Họ đã sai.
Đột nhiên tôi khát khao được tận mắt trông thấy những ngôi làng tự trị. Tôi muốn thấy người dân của tôi và của Bão sống bên nhau. Tôi muốn biết một nơi không có vua hay hội đồng cai trị sẽ thế nào, một xã hội có thể tồn tại ra sao khi không phải trung thành với một ông vua bà chúa nào hết.
Nhưng chủ yếu, tôi muốn thấy nó vì hồi năm ngoái, tôi đã biết và cảm thấy vô cùng đau lòng rằng những điều người ta cất công giấu giếm tôi lại là những điều đáng cho tôi tìm hiểu nhất.