• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Khúc ca bi tráng - Phần 3: Vùng đất chết
  3. Trang 45

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 44
  • 45
  • 46
  • More pages
  • 50
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 44
  • 45
  • 46
  • More pages
  • 50
  • Sau

37

Chuyến đi của chúng tôi không quá cấp bách, nhưng tôi trở nên lầm lì và xa lánh, thích ăn uống cách xa một quãng, nơi tôi có thể cảm thấy một chút riêng tư. Giờ tôi đã khác. Và như thể tôi phải nghĩ thông suốt, học lại mình là ai, trước khi tôi có thể ở bên những người khác.

Một buổi chiều, khi chắc chắn không có ai để ý, tôi rút Thánh thạch của mình ra khỏi túi. Nó tỏa ánh sáng lờ mờ trong lòng bàn tay tôi, và vết nứt giữa tâm nó cứa vào da tôi. Tôi nhắm mắt và cố gọi zafira. Chẳng có gì xảy ra. Không lấy một chút sức mạnh.

Tôi thử lại vào buổi tối, lần này bằng viên đá đã lấy từ khám thờ của Lucero. Có lẽ tôi có thể như Bão, một pháp sư với một viên đá tách rời. Nhưng lại chẳng có gì đến. Dù cho tôi có cầu nguyện đến đâu, có đứng vững đến đâu, tôi vẫn là một thân xác trống rỗng, không sức mạnh.

Gì đó phải xảy ra khi Thánh thạch rạn vỡ. Tôi nhìn ra sa mạc mênh mông, cố mở to mắt khi gió hất những lọn tóc vào má. Nơi này vẫn là một phần của mình, tôi tự nhủ, dù có cảm giác mình đã bị đẩy xa khỏi thế giới.

Tôi cảm nhận được một bàn tay đặt trên vai. “Không ai nghĩ kém cô kém cỏi hơn trước đâu,” Mara nói và tôi tự hỏi liệu có phải cô đã trông thấy những nỗ lực không thành của tôi chăng. Sau đó cô thở dài. “Nhưng nếu cô muốn vô lí một thời gian, cứ tự nhiên.”

Tôi đang rất vô lí. Nhưng Thánh thạch đã là một phần không thể tách rời của tôi – cả cơ thể và cuộc đời tôi – và tôi không biết phải thế nào khi sự việc khác đi.

“Em đã phụng sự xong và còn sống,” Hector nói với tôi vào đêm đó khi chúng tôi nằm trong lều. “Em có thể không vui, nhưng tôi thì có. Tôi cực kì nhẹ nhõm, thật lòng đấy.”

“Nhưng giờ em không còn sức mạnh,” tôi nói khẽ.

“Đúng, không còn sức mạnh,” anh nhắc lại. “Chính vì thế tôi không có ham muốn làm điều này.” Anh áp môi vào trán tôi. “Đó là lí do tôi có thể dễ dàng từ chối điều này.” Anh áp môi vào môi tôi, trêu chọc chúng mở ra, hôn tôi thật lâu và thật sâu. “Và đó là lí do tôi cực kì không muốn làm điều này.” Anh kéo tôi lại sát anh, và bàn tay anh trượt vào dưới gấu áo tôi. “Em có thấy không, Elisa?” Anh nói, giọng trầm khàn. “Em chỉ có một chút sức mạnh với tôi không?”

Sáng hôm sau, tôi ăn sáng với mọi người.

Mệt mỏi và đau đớn vì cưỡi ngựa lâu ngày, với cát chui vào những vết thương hở tôi không nhận ra là mình có, chúng tôi đã đến Basajuan chỉ trong vòng hai tuần. Những bức tường cao kiêu hãnh hòa thành một dải với quang cảnh sa mạc. Nếu không phải có dòng người ngựa đi lại theo hướng đối diện, ta sẽ không bao giờ biết mình đã đến một thành phố lớn, cho tới khi tất cả đọt nhiên trồi lên khỏi nền cát, một công trình to lớn và cổ xưa bằng đá được canh gác bởi những binh lính đồ chơi nhỏ xíu nhìn xuống từ những lỗ châu mai. Tôi hít thật sâu không khí sa mạc nóng nực. Nó có mùi phân lạc đà, muối biển cùng cát nóng, và tôi yêu nó.

Hector giơ nắm đấm, chúng tôi dừng lại ngoài tầm mắt của lính canh. Hector tình cảm, hay cười hay nói bị thay thế bởi một người khác, một chỉ huy nhiều suy tính lạnh lùng.

Anh đưa tay che mắt khỏi ánh mặt trời và nói, “Lính gác cổng chính được tăng gấp ba,” anh nói. “Tôi chắc chắn ở các cổng khác cũng vậy.”

“Chúng ta có thể đi qua cảng không?” Belén hỏi. “Chúng ta có thể cải trang là thủy thủ hoặc công nhân bến tàu.”

Theo thói quen, tôi áp tay lên rốn để cầu xin sự thông thái hoặc vận may, nhưng chỉ thấy một sự thiếu vắng. Thế là tôi gửi lời cầu nguyện vào không gian tâm thần rộng lớn của những giấc mơ, hi vọng và tưởng tượng – nghĩa là có thể chẳng gửi đến đâu – trong khi tự hỏi liệu Chúa có nghe thấy không. Đây là cảm giác của mọi người, khi cầu nguyện và chẳng bao giờ nhận được một sự trấn an hữu hình rằng có ai đó đang lắng nghe.

“Đằng nào chúng ta cũng bị nhận ra thôi,” Mara nói. “Cánh lính gác đã quá quen mặt chúng ta. Tướng quân có tai mắt ở mọi nơi; tôi dám cá bằng túi gia vị của mình.”

“Không phải em,” Đỏ nói. “Không ai biết em.”

“Chắc chắn phải có lối vào bí mật chứ?” Tôi nói. “Mọi nhà cầm quyền đều có lối ra vào thành phố cho riêng mình.”

“Từng có một địa đạo,” Hector nói. “Nhưng đã bị sụp trong cuộc chiến. Tôi tính sửa, nhưng nó không được ưu tiên lắm trong danh sách…”

Tôi phẩy tay, nhận ra giọng tôi-không-bảo-vệ-được-em. “Chúng ta sẽ tìm cách khác. Thế còn các đường cống? Chúng dẫn đến vách núi và biển, phải không? Ta có trèo lên được không?”

Mara rền rĩ. “Đường cống. Hang động. Vì sao luôn là đường cống và hang động chứ?”

Hector xoa cằm. “Có thể. Chúng trơn và nguy hiểm. Nhưng chướng ngại lớn nhất của chúng ta là sóng ngay bên dưới. Khó mà tiếp cận một chiếc thuyền mà không bị sóng đánh chết.”

“Chúng ta cần cải trang,” Belén nói.

Hector lắc đầu. “Họ kiểm tra bất cứ ai trông đáng ngờ. Chúng ta không thể liều được. Nếu họ giữ chúng ta lại kiểm tra, chúng ta chắc chắn sẽ bị nhận diện.”

“Tôi có một ý,” tôi nói. Tôi thấy đắc thắng. Tôi có một ý. Đây là sức mạnh cuối cùng của tôi.

Tất cả quay sang tôi. Belén toét miệng cười.

“Tu viện mở cửa đón dân thường,” tôi nói. “Chúng ta sẽ nhờ Đỏ đi tìm cha Nicandro. Nhờ ông mang áo choàng tu sĩ và đưa chúng ta vào thành phố. Chúng ta sẽ giả bộ là những tu sĩ đến từ… Amalur đang hành hương đến tu viện đầu tiên của Chúa. Không ai dám khám người tu sĩ đang trong chuyến hành hương linh thiêng đâu.”

“Kế hoạch hay đấy,” Hector nói.

“Tôi thích các đường cống hơn,” Mara bảo.

“Có lẽ nguy hiểm cho cô bé,” Belén nói. “Dòng máu Invierno của nó quá rõ ràng.”

“Em sẽ làm,” Đỏ ngẩng cao đầu nói. “Chỉ là đôi mắt của em khiến mọi người để ý. Em phải thực hành nhiều để che giấu chúng.”

“Em chắc chắn không Đỏ?” Tôi hỏi. “Basajuan là môt nơi rất rộng lớn, ồn ào.”

Nó nhún vai. “Em có thể.”

“Vậy thì được,” tôi khom người trước mặt cô bé. “Chị sẽ không ghi lại, đề phòng em bị khám người, nên em phải nhớ kĩ nhé.”

Nó nghiêm túc gật đầu.

Tôi chỉ đường chi tiết cho nó đến tu viện và bảo nó nhắc lại. Nó nhắc lại, không sai lấy một chữ, và tôi thầm thề sẽ tìm thầy giỏi nhất cho nó và trí nhớ của nó. “Khi đến tu viện, hãy hỏi tìm cha Nicandro. Cứ nói em có tin nhắn gửi cha. Cha là tu viện trưởng, và không phải ai cũng được gặp cha. Vậy nên người tiếp chuyện với em sẽ yêu cầu em cho biết nội dung. Đừng. Tin nhắn của em chỉ gửi cho cha Nicandro mà thôi. Nếu bị hỏi dồn, cứ nói là từ sứ giả Alentín và phải gửi riêng cho ông.”

Tên Alentín sẽ giúp con bé được gặp cha Nicandro. Cha Alentín là tu sĩ, đồng thời là người đứng đầu phái đoàn ngoại giao của nữ hoàng Cosmé.

“Khi nào gặp cha Nicandro, và chỉ khi đó, em mới được cho cha biết về chúng ta và rằng chúng ta cần lẻn vào trong thành phố.”

Mắt con bé mở lớn trong lúc tập trung ghi nhớ. Nó lẩm bẩm nói một mình, để ghi nhớ. Đề phòng các tu sĩ cố lừa gạt lấy thông tin từ nó, tôi nói thêm, “Chị muốn em hỏi cha Nicandro một câu hỏi để đoan chắc đó là cha. Hãy nói thế này: ‘Cha từng gặp nữ hoàng lúc nửa đêm, trong phòng ghi chép, sau khi đồng hồ kêu tiếng đầu tiên. Sao cha sắp xếp được buổi gặp đó?” Giờ nhắc lại xem nào.”

Nó nhắc lại, chỉ sai một chút, và chúng tôi lặp lại một lần nữa.

Tôi mỉm cười. “Chị đã lén chuyền một mẩu giấy cho cha trong buổi bí tích chịu đau, ngay trước khi cha châm gai hồng vào ngón tay chị. Ông nhét nó vào trong ống tay áo.” Nụ cười của tôi nhạt đi. “Nếu người em nói chuyện không nhắc đến điều đó, vậy thì hắn không phải Nicandro.”

Đỏ nhúc nhích, tránh ánh mắt tôi. “Sẽ rất khó giấu đôi mắt em khi em nói chuyện với người khác,” nó nói, giọng hối lỗi khiến tôi cúi xuống ôm nó.

“Nếu họ nhận ra thì kệ họ,” tôi bảo. “Hãy nói bất cứ điều gì em muốn. Hãy nói rằng em là dân đảo và tất cả anh trai em đều có đôi mắt như thế. Và chị thề với em, Đỏ, sau chuyện này, nếu chúng ta thành công, em sẽ không bao giờ phải giấu đôi mắt của mình nữa.”

Cô bé ôm chặt lấy tôi, rồi buông ra, đứng rất thẳng lưng – nhưng cũng chẳng cao được hơn bao nhiêu – và nói, “Em đã sẵn sàng.”

Tiếp đó, những người khác cũng ôm nó, và dù không ai nói gì nhưng tất cả đều biết đây rất có thể là một cái ôm từ biệt.

Nó đeo túi và rảo bước đi về đường cái. Chúng tôi nhìn bóng dáng nhỏ bé của nó lẫn vào dòng người, sau đó tôi thoáng thấy nó len về phía cổng thành.

Hector đưa tay lên che mắt và nói, “Nó đến cổng rồi.”

Cô bé chỉ như một cái chấm nhỏ với tôi, nhưng mắt Hector thì tinh như mắt diều hâu.

“Có một cỗ xe ngựa trên đường… à, nó kia rồi. Lính gác vừa chặn nó.” Anh đưa tay lên chuôi kiếm, như thể có thể bảo vệ cô bé từ xa. “Họ đang nói chuyện với nó.”

Mara và tôi hốt hoảng nhìn nhau. “Nó thông minh lắm,” Mara nói. “Nó sẽ nghĩ ra gì đó, nhỉ?”

Tôi gật đầu, tim như nhảy lên tận cổ họng. Nó chỉ là một bé gái. Một đứa bé đáng yêu, quý báu và ngây thơ như hoàng tử nhỏ của tôi. Sao tôi lại bắt nó làm cái việc nguy hiểm này?

“Vẫn đang nói chuyện,” Hector nói. “Cứ trao qua đổi lại. Một người vừa lấy túi hành lí của nó. Hắn đang nhìn vào trong.”

“Nếu họ làm nó bị thương…” Belén nói.

“Nó đang chống hông,” Hector nói. “Tôi nghĩ nó đang mắng họ.”

Ôi Chúa ơi. Tôi có thể tưởng tượng ra, “Tôi là tiểu thư Đá Lấp Lánh Đỏ, tùy nữ của nữ hoàng, các ngươi biết điều thì cho ta qua!” Không, nó thông minh hơn thế. Nó hiểu chuyện hơn. Phải không?

“Nó vào rồi!” Hector nói, và tôi thấy nhẹ cả người. “Họ cho nó qua. Nhưng một người lấy mất túi đồ ăn của nó. Tôi sẽ giết hắn.”

Chúng tôi ngồi trên sườn đồi nhìn ra đường và sa mạc, chờ đợi. Mặt trời nung nóng không khí tới mức khiến cảnh vật lung linh, nhưng không ai thèm lên đồi để tận dụng bóng râm của vài cây cọ còi cọc trên ấy. Chúng tôi đăm đăm nhìn cánh cổng vĩ đại của Basajuan, như thể có thể dùng ánh mắt để gọi Đỏ trở về.

Nhưng nó không quay lại. Mặt trời to tướng vàng đỏ lặn xuống sau dãy Sierra Sangre, và nhiệt độ hạ xuống thấp đến mức hơi thở của tôi hóa hơi trong không khí, nhưng con bé vẫn chẳng thấy tăm hơi.

Belén bẫy vài con chuột nhảy và khéo léo xẻ thịt. Mara nấu xúp trong khi Hector trèo lên cây chà là gần đó và rung quả chín xuống. Sau món xúp thịt chuột nhảy và chà là tươi, chúng ta im lặng ngồi nhìn đường.

Tôi vai kề vai với Hector. Anh vòng một tay ôm tôi, và tôi dựa vào anh, coi sự vững chãi của anh là niềm an ủi. Chỉ như một khoảng thời gian ngắn trôi qua, và đột nhiên tôi chớp mắt trước ánh mặt trời ngày mới.

“Chào buổi sáng,” anh nói và áp môi vào tóc tôi.

Tôi xoay cổ cho đỡ cứng. “Anh thức cả đêm à?” Tôi hỏi.

“Tôi ngủ gà gật. Thi thoảng đổi gác với Belén.”

Anh đứng dậy vươn vai. Tôi đứng bên cạnh và ôm eo anh. Những ngón tay anh luồn vào tóc tôi khi chúng tôi nhìn qua sa mạc.

“Là Đỏ kìa!” Mara nói, chỉ ra đường. “Nó về rồi.”

Bão rời khỏi lều, rồi dừng bước và lấy lại vẻ ngạo mạn như thường lệ. “Nó đưa vài người về cùng,” ông nhàn nhạt nhận xét.

Tôi nheo mắt vì ánh nắng mai. Đỏ đi cùng hai người nữa. Một người dẫn lạc đà chất đống hành lí ngất nghểu.

“Tôi hi vọng đó là cha Nicandro,” Hector nói. Một mắt nhìn đường, anh đeo găng tay và kiểm tra kiếm.

Cả hai đều mặc áo choàng tu sĩ. Mọt người gầy, chỉ cao hơn một đứa trẻ chút xíu. Người kia… tim tôi bắt đầu đập rộn. Tôi biết dáng hình đó, sải bước nặng nề nhưng vững chãi đó.

“Ximena,” tôi nói khẽ.

Hector quay phắt sang. “Không phải em đã lệnh cho bà ấy trở về Orovalle rồi sao?”

Tôi gật đầu, không cất nổi thành lời. Tôi đã đuổi vú nuôi của mình đi từ vài tháng trước vì bà dám thay tôi quyết định những chuyện đời tôi. Nhưng tôi vẫn yêu quý bà. Có lẽ bà tìm được một công việc ở chỗ cha Nicandro. Cũng dễ hiểu thôi – bà yêu các thánh thư và từng chép lại nhiều văn kiện nổi tiếng.

Gương mặt Đỏ sáng lên sự đắc thắng. Và sau đó con bé không thể kiềm chế lâu thêm; nó chạy tới, khiến bụi đất bay lên, và lao vào vòng tay Mara. “Đúng như Elisa đã nói!” Con bé vừa thở hổn hển vừa nói. “Họ tính lừa em. Nhưng em không nói gì cả. Không một từ nào, cho tới khi em biết chắc đó là cha Nicandro.”

Vị tu sĩ kia lên đồi, rồi chìa cả hai tay và tôi bắt lấy. “Con gái thân yêu,” ông nói. “Thật mừng vì được gặp con.”

“Cảm ơn cha đã tới,” tôi nói và nắm chặt tay ông.

Đằng sau ông, người vú nuôi cũ của tôi dừng lại, tay chắp phía trước. Bà trước đây luôn có vẻ vô hại – một người phụ nữ có đôi má hồng hào, bàn tay mũm mĩm và một nụ cười dễ chịu. Nhưng bây giờ thì không. Bà có vẻ dữ tợn, với đôi mắt đen nhỏ sắc bén hơn bao giờ hết, và một vết sẹo lồi dọc một bên xương gò má. Một vài tháng trước bà đã bị tên bắn sượt qua khi cố cứu nữ hoàng giả mạo. Nhưng không thành công. Mũi tên tiếp theo đã lấy mạng cô gái ấy.

“Xin chào Ximena,” tôi nói.

“Bà cúi đầu. “Thưa nữ hoàng.”

“Con rất ngạc nhiên khi thấy vú ở đây.”

“Cha Nicandro đã đưa ra một đề nghị lạ lùng,” bà nói. “Và vú không thể chối từ.”

Tôi nhướng một bên lông mày với ông.

“Và may vì bà ấy đang rảnh rỗi,” vị tu sĩ nói và buông tay tôi ra. Ông rảo bước tới chỗ lạc đà và bỏ xuống chồng vải len chưa nhuộm được buộc lại. “Đội Ngự lâm quân của con chọn ẩn náu thay vì bảo vệ lâu đài,” ông giải thích, ném một bó cho chúng tôi. “Họ quá ít người. Nhưng như vậy gia đình họ, con cái họ sẽ gặp nguy hiểm. Chúng ta đưa họ vào tu viện, hi vọng lính của tướng quân sẽ không trả đũa họ hay dùng họ để tác động, khi mà họ ở trong ngôi nhà của Chúa.” Ông ném bó cuối cùng cho tôi. Tôi tháo và giũ ra. Đó là một chiếc áo chùng, nhưng nó quá dài với tôi.

“Vú chăm sóc họ,” Ximena nói. “Dù gì thì đó cũng là việc của vú.”

“Một người vú nuôi có thể lấy mạng kẻ đột nhập bằng tay không,” Nicandro nói thêm, mắt ánh lên vẻ láu ca.

“Đúng.”

Hector và tôi đổi áo choàng – của anh ngắn hơn nhiều – và chúng tôi choàng ra ngoài đồ đang mặc.

“Này,” tôi không nói rõ với một ai. “Trông tôi có giống… tu sĩ không?”

Nicandro nhăn nhó. “Con và người bạn Invierno của con… Chà, chúng ta nên đợi tới tối muộn. Tướng quân giới nghiêm thành phố vào ban đêm. Chúng ta sẽ khởi hành vào lúc hoàng hôn, ngay trước khi họ đóng cổng.”

Tôi không nghĩ mình có thể giận những kẻ âm mưu chiếm quyền tôi hơn nữa. Giới nghiêm cả thành phố là vấn đề nghiêm trọng. Tác động tới việc giao thương, nhuệ khí, là không thể đong đếm được. Tôi chỉ tính đến việc đó trong lúc có dịch bệnh hoặc vây thành.

Nhưng đó đúng là điều họ đang lo lắng. Vây thành, và tôi là kẻ xâm lăng.

“Cha sẽ đưa chúng con vào thẳng tu viện chứ?” Yôi hỏi.

“Nếu không sẽ thu hút sự chú ý mất,” ông nói. “Nhưng đến sáng, chúng ta sẽ giả bộ là người truyền giáo để đến Wallows, phân phát tiền và bánh mì cho người nghèo kèm theo những lời động viên của Chúa.”

“Đến chỗ Ngự lâm quân,” tôi nói.

Ông gật đầu. “Họ đang ẩn nấp trong ngôi làng trong lòng đất nhiều tháng nay. Có vài người sẽ vô cùng mừng rỡ khi được gặp con. Bá tước Tristán cũng ở đó.”

Nụ cười vui sướng của tôi tắt lịm. Nếu Tristán phải đi trốn có nghĩa là tuyên bố về việc đưa anh lên vị trí Trưởng lão đã vấp phải sự phản đối.

Chúng tôi bán ngựa với giá rẻ mạt cho một đoàn thương lái đi qua, chỉ giữ lại duy nhất một con ngựa thồ. Chúng tôi lần lượt vào sa mạc đi một vòng, kéo lê gấu áo chùng để có vẻ như đã đi bộ nhiều ngày trời. Những cơn mây mùa đông sớm hiếm hoi từ biển bay vào, và hoàng hôn nhuộm sắc hồng đậm cho đáy tầng mây khi chúng tôi khởi hành đi ra cổng.

“Có tin gì của hoàng tử không?” Tôi vừa đi vừa thì thầm hỏi cha Nicandro.

“Tướng quân Luz-Manuel đang cố tìm cậu bé,” tu sĩ hạ giọng nói. “Chỉ cần một chút dấu vết về lòng trung thành với dòng họ Riqueza, ông ta sẽ cho người đến tận nhà lùng tìm. Dân chúng bị tịch biên tài sản. Họ bảo đó là một phần của việc điều tra, nhưng thật ra là dùng để chi trả chiến phí.”

Nếu có cơ hội, tôi sẽ giết ông ta. “Công dân Basajuan không thể vui vẻ với những chuyện như thế.”

“Nhiều người không vui, nhưng hành động của ông ta khiến nhiều người ủng hộ con hơn. Tuy nhiên nhiều người cảm thấy hành động của tướng quân là thỏa đáng. Ông ta và bá tước gọi con là kẻ phản bội và ngụy vương, người sẽ kéo kẻ thù đến với chúng ta như một thứ bệnh dịch. Và người dân chưa bao giờ tồi tệ như khi họ sợ hãi.”

“Nhưng còn hoàng tử.” Tôi nhìn quanh để đảm bảo không có ai nghe được. “Rosario. Cậu ấy…”

Nicandro cười trấn an. “Chúng ta không thể giấu cậu ấy mãi được. Nhưng hiện cậu bé vẫn ổn.”

Chúng tôi tiếp tục nghiêm trang bước đi. Cha Nicandro mang theo một chiếc lò đốt trầm lắc lư trên một sợi dây, bốc khói thơm lên trời. Ông vừa bước vừa cầu nguyện, và chúng tôi đi nhanh nhất có thể. Đỏ đi sau cùng. Nó mặc áo chùng của tu sĩ học việc, giữ cương lạc đà và ngựa thồ.

Cổng thành sừng sững trước mắt chúng tôi. Cánh cửa lớn mở rộng. Mỗi bên cánh đều có những miếng gỗ vá sáng màu hơn – những gì còn sót lại cho thấy các pháp sư Invierno đã đốt xuyên qua đó một năm về trước.

Binh lính xếp hàng dọc lối vào, mỗi bên sáu người, đứng thành đường chéo để dòng người nhỏ giọt đi vào. Cung thủ và lính giáo quan sát chúng tôi từ các lỗ châu mai bên trên.

Chúng tôi yếu cả về người và vũ khí. Đây không phải đám sơn tặc hay những tay lính đánh thuê đang lạnh cóng mệt nhoài từ chuyến đi xa. Đây là những người lính được tôi luyện trong chiến trận, được huấn luyện bài bản, nghỉ ngơi đầy đủ, và nếu họ không cho qua, chúng tôi không thể nào mở đường xông vào.

Tôi không nhìn trái nhìn phải. Tôi cúi đầu tỏ vẻ khiêm nhường nhưng bước chân kiên định, như thể tôi hoàn toàn có quyền có mặt ở đây.

“Dừng lại!” Có người quát. “Cho biết công việc.”

Cha Nicandro bước lên. Ông lại gần đến nỗi khói hương phả lên mặt tay lính gác. Hắn nhăn mũi. “Chúng ta làm việc của Chúa,” Nicandro nói.

Một lính gác khác tiến đến, “Xin chào Đức Cha,” hắn nói và liếc xéo đồng đội. Tên đầu tiên nhăn nhó. “Con không nhận ra cha đã rời thành phố.”

“Ta phải nói với con sao?” Tôi không thấy vẻ mặt vị tu sĩ, nhưng có thể tưởng tượng ông đang tỏ vẻ cực kì bối rối.

“Thời gian này rất nguy hiểm. Nếu cha cho biết trước lịch trình, chúng con có thể hộ tống cha nếu cần, giúp cha đi qua các đồn canh gác. Đó là vì sự an toàn của cha thôi.”

“Ta hiểu. Lần sau ta sẽ làm như vậy.”

Không ai nói gì, không ai nhúc nhích.

Tên lính húng hắng. “Cha có phiền… cho chúng con biết vì sao cha rời thành phố không?”

Cha Nicandro chỉ về phía chúng tôi. “Ta nhận được tin những vị khách này đang tới, nên ta rời thành phố để hộ tống họ nốt đoạn đường cuối để thể hiện lòng hiếu khách. Họ là tu sĩ hành hương, đến thay mặt cha Donatzine và nữ hoàng Alodia từ tu viện Amalur. Họ muốn đến thăm tu viện đầu tiên của Chúa, và để trao đổi các văn bản dịch với những người thư lại của chúng ta.”

Người lính xoa cằm. Hắn biết cần phải khám người chúng tôi. Những con vật thồ của chở đầy đồ, và cái áo chùng sùm sụp chẳng để lộ cái gì. Hắn hoàn toàn nên lo lắng.

Hắn lại gần hơn. Không ai nhúc nhích hay thậm chí nhăn mày. Tôi ép mình hít thở bình thường. Hắn nhìn người gần đức cha nhất. “Bà Ximena,” hắn nói, không một chút ngạc nhiên. Và giọng hắn nhuốm mùi nghi ngờ không lẫn vào đâu được khi bảo, “Tôi không nghĩ bà sẽ theo cùng đức cha.”

“À vâng, thưa trung sĩ,” bà vui vẻ nói. “Anh biết đó, tôi vốn là người Orovalle. Tôi rất mong ngóng được gặp lại vài người bạn cũ.”

Một khoảnh khắc sống sượng trôi qua. Hai tay lính liếc nhìn nhau. Viên trung sĩ tiến về phía Belén, mắt nheo lại.

“Này trung sĩ!” Nicandro nói, hơi lớn tiếng. “Ta thật lòng hi vọng con không giữ chúng ta lại thêm lâu. Các vị khách đã đi cả một chuyến hành hương gian khổ, và ta rất muốn họ có được sự hiếu khách xứng với địa vị và mục đích của họ.”

Tôi cầu nguyện – Cầu Chúa, cầu Chúa hãy giúp chúng con qua – ngay cả khi nhìn khắp chung quanh, tìm kiếm tuyến đường tẩu thoát hay nhất. Tôi quyết định là đường phía nam. Đủ người đi bộ qua lại khiến họ không lòng lần tìm dấu vết của chúng tôi. Tôi không đời nào thắng được một trận đánh giáp lá cà với đối thủ đông ngần này. Tôi chưa từng thử dùng dao khi mặc trang phục tay áo thùng thình.

“Chúc một buổi tối tốt lành, thưa Đức Cha,” trung sĩ nói, lùi lại. Nicandro bắt đầu đi, và chúng tôi bước theo. Tôi thoáng thấy lính gác chăm chú nhìn chúng tôi đi qua. Họ sẽ ghi nhớ nhóm tu sĩ nước ngoài bỗng dưng đến này. Họ chắc chắn sẽ cho người đến tu viện tìm hiểu về chúng tôi.