Dù tôi chỉ muốn guồng chân chạy, nhưng chúng tôi vẫn nghiêm trang đi trong đại lộ lớn về lâu đài, trông thấy rõ những tòa nhà thành thị mọc lên hai bên đường, với những khu vườn treo và các ô cửa sổ lấp lóa. Trời tối dần khi mặt trời dần lặn, nhuộm những tòa nhà bằng sa thạch và gạch sống sang sắc đỏ cam. Những dây hoa dạ lan thảo bò qua những vết vữa nứt và lên những thân cọ, bung nở chào đón màn đêm. Thành phố tươi đẹp của tôi.
Nhưng tôi nhăn mặt trước những công sự dọc đường – những rào chắn gỗ có thể xoay ra để chặn đường bất cứ lúc nào, những túi vải bố đựng cát có thể dùng để chặn tên và giáo.
Chúng tôi đi vào sân lâu đài, và tim tôi hát lên, “Quê nhà!” trong một khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi chúng tôi rời khỏi cổng chính, bước về tòa nhà lân cận thấp hơn xây bằng vữa và gỗ. Đỏ giao đám vật thồ cho cậu bé trông ngựa, sau đó cha Nicandro dẫn chúng tôi qua một phòng chờ rộng và vào thánh đường.
Đây là một chốn yên lặng, linh thiêng, sáng ánh nến, nức mùi hoa hồng thánh. Thế nên giọng Nicandro lớn đến giật mình khi ông nói, “Các huynh đệ hẳn rất mệt mỏi sau chặng đường dài từ Amalur! Đi nào, tôi sẽ bảo nhà bếp chuẩn bị gì đó.” Ông mặc kệ ánh nhìn của các tu sĩ, tăng sĩ và người đi lễ, giục chúng tôi đi qua một cửa ngách vào phòng ăn vắng tanh.
Ông đóng cửa, cài then. “Giờ thì mọi người đã tạm thời an toàn. Giờ ăn đã qua từ lâu. Cứ tự nhiên. Ta sẽ mang đồ mới đến.”
Ông và Ximena rời nhà bếp, và chúng tôi ngồi trên nền đá cứng chờ đợi.
“Em nghĩ Ximena định làm gì?” Hector nói, chăm chú nhìn theo.
“Em không biết,” tôi thành thật nói. Ximena luôn giữ những suy nghĩ cho riêng mình, lập kế hoạch của riêng mình – dù cho nó có mâu thuẫn với những kế hoạch của tôi. “Em biết bà sẽ làm điều mà bà cho là đúng.” Nhưng đó không phải là điều tất cả chúng ta đều làm ư? Bá tước Eduardo tin rằng mình đang cứu đất nước bằng cách đưa nó vào một cuộc nội chiến. Một con đường đáng tiếc nhưng đáng giá, nếu như đó là cái giá để ông ta leo lên được ngai vàng của tôi. Người Invierno nghĩ họ có quyền xâm lăng Basajuan, để lại đống đổ nát hoang tàn trên đường đi, nếu nó là để phục thù cho điều sai trái đã đến với họ một thiên niên kỉ trước.
“Em không tin bà ấy là một đồng minh chân thật,” tôi thừa nhận. “Nhất là sau chuyện với anh. Em sẽ đề nghị Nicandro đảm bảo bà ấy không can dự vào.”
“Nhưng em vẫn yêu bà ấy.”
Tôi bóp nhẹ tay anh.
Nicandro một mình quay lại cùng bánh mì nóng, một khoanh pho mát, rượu lạnh và bánh dừa mật ong. Bánh đã để qua ngày, nhưng tôi mừng vì ông vẫn nhớ món bánh yêu thích của tôi.
Tôi lấy hết can đảm và bảo ông rằng Ximena phải tránh xa chuyện này. “Như ý con thôi, nữ hoàng ạ,” ông nói. “Nhưng ta nghĩ con đánh giá thấp bà ấy rồi.”
Ông quay gót định bỏ đi, nhưng tôi giữ tay áo ông. “Cha. Còn một chuyện nữa.”
Gì đó trên gương mặt tôi khiến ông kéo tôi đi vài bước, xa khỏi tầm nghe của những người khác. “Sao thế, Elisa?”
“Thánh thạch của con. Nó…”
“Ta không cảm thấy nó từ khi con quay lại.”
“Nó rời ra.”
Mắt ông trợn tròn khi tôi kể chuyện cứu một ốc đảo những chồi cây non. “Con làm được rồi,” ông bâng khuâng. “Con đã hoàn thành việc phụng sự.”
“Nhưng vậy là sao?”
Ông có vẻ bâng khuâng. “Ta không biết. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ biết.”
“Chắc chắn cha phải có giả thuyết gì đó chứ? Rất nhiều tu sĩ sẽ bới tung các thánh thư để tìm ra gì đó chỉ cần có hơi hướm liên quan tới chuyện xảy ra với con. Họ sẽ tạo ra cả một giáo lí từ cái họ tìm thấy. Có lẽ họ sẽ tuyên bố một lời sấm truyền trở thành hiện thực. Và sau đó họ sẽ tin đến khi nhắm mắt xuôi tay.”
Lời của tôi quá bén nhọn, quá giận dữ, và tôi đang định xin lỗi thì người tu sĩ nói, “Bản tính của con người là dựng lên những lời giải thích để khỏa lấp khoảng hư không rộng lớn của những gì chưa biết.”
Tôi nhíu mày. “Đó không phải điều chúng ta vẫn làm mỗi khi gán gì đó cho Chúa sao?”
Đó là điều Ximena luôn làm. “Trí óc của Chúa bí ẩn và không ai có thể hiểu được,” bà sẽ nói thế. Đó như thể bà đang gạt bỏ những nghi vấn của tôi.
Gương mặt cha Nicandro trở nên trầm ngâm. “Có lẽ. Lấy Thánh thạch của con làm ví dụ. Người thú được sinh ra với viên đá của mình. Nhưng con có viên đá của mình vào lúc nào?”
“Vào lễ đặt tên. Nó xuất hiện như thể có phép màu.”
Nicandro gật gù. “Và với tất cả những người mang Thánh thạch khác cũng vậy, cứ một trăm năm một lần. Con thấy không, con gái thân yêu, Thánh thạch của người thú là tự nhiên. Nhưng của con thì sao? Của con là do thánh thần ban cho.”
“Cha vừa gán điều cha không hiểu cho Chúa.”
Ông nhoẻn cười. “Và cha còn tiếp tục làm như thế. Tới khi cha có lời giải thích thỏa đáng hơn.” Ông bóp nhẹ vai tôi. “Đừng bao giờ ngừng hỏi, nữ hoàng à. Chúa trân trọng những người tìm kiếm sự thật.”
Tôi bị thúc giục phải ôm ông. Ông và Hector là hai người bạn thực sự đầu tiên của tôi tại Basajuan, và tôi sẽ không bao giờ quên điều đó. “Con cảm ơn cha.”
Ông vỗ lưng tôi rồi buông ra. “Cố nghỉ ngơi một chút đi.”
Nicandro châm vài cây nến cho chúng tôi, sau đó đi nghỉ. Tôi đi đi lại lại nhiều giờ, nghĩ về những lời tiên tri, về Chúa và Thánh thạch, tự hỏi sao tôi có thể mong Ximena tránh xa mình – nhưng cũng mong có bà ở gần để xoa dịu những lo lắng của tôi bằng một cái ôm và câu nói Tất cả rồi sẽ ổn, bầu trời của vú.
Sáng hôm sau, lưng và cổ chúng tôi đau vì nằm trên nền đá của phòng ăn tu viện. Nicandro đưa chúng tôi đến Wallows, khu vực nguy hiểm nhất thành phố. Không thể phân biệt các tòa nhà ở đây. Chúng là một khối thống nhất bằng gạch sống đã xuống cấp cùng với gỗ ván và mái lợp cọ. Những con phố hẹp và quanh co, đá lát vỉa hè bung lên – hoặc bị bóc đi làm vật liệu xây dựng. Những đứa trẻ bẩn thỉu, chân đất luồn lách qua đám đông, chạm vào bất cứ ai chúng đi qua, khiến tôi mừng vì tấm áo choàng sờn của mình không có túi. Mọi thứ đều bốc mùi cống rãnh.
Chúng tôi phân phát bánh mì, tiền xu và suýt bị giẫm bẹp thì Nicandro giơ tay lên và nói, “Hết rồi! Chúng tôi sẽ trở lại vào tuần sau!” Đám đông tản ra.
Ông vội giục chúng tôi đi qua một dãy những quầy hàng – chủ yếu bán cá và những đồ biển ươn – vào một con hẻm nhỏ. Chúng tôi đến cánh cửa bị cong vênh vì nắng nóng và muối mặn, bản lề và khóa đã gỉ sét. Ông nhìn quanh để đảm bảo không bị ai để ý; sau đó ông rút chìa khóa và mở cửa. Tôi nhăn mày khi nó cót két mở ra. Chúng tôi bước vào không gian tối tăm lành lạnh.
“Ta phải trở về tu viện,” ông nói. “Phải có người trả lời những câu hỏi về đoàn tu sĩ lạ mặt đến từ Amalur. Trong phòng tiếp theo có một cái cửa sập. Cầu thang sẽ dẫn xuống ngôi làng dưới lòng đất.”
Tôi nắm hai bàn tay ông. “Cảm ơn cha.”
“Chúa sẽ dõi theo con, con gái thân yêu. Khi chuyện bắt đầu, cha sẽ giúp con trong khả năng của mình.”
Tôi tìm lời bày tỏ có ông là bạn và đồng minh có ý nghĩa thế nào với tôi, từ đêm đó, hơn một năm trước khi ông chào đón nàng công chúa đang hoảng hốt vào trong thư khố thiêng liêng của mình và cho nàng biết sự thật. Nhưng ông đã đi trước khi lời kịp lên môi tôi.
Lâu lắm rồi chúng tôi mới có một cuộc đi nhanh và dễ dàng như thế. Cầu thang dài và dốc, đưa chúng tôi vào một cái hốc đất nhỏ. Chúng tôi lo lắng lén nhìn qua cửa vào một hang động tối, được dăm ba tia nắng chiếu vào.
Ngôi làng dưới lòng đất vẫn giống như trong trí nhớ – những hố trên trần hang ngập nắng và những cây cối xanh tươi, dây leo buông xuống gần chạm nóc các túp lều, dòng sông rộng uốn quanh một bước tường đằng kia trước khi vào một đường ngầm dẫn ra biển. Nhưng lần này, thay vì những người dân nghèo trốn thuế thương hội, hang còn có những người lính Ngự lâm quân của tôi. Một vài ngồi mài kiếm và lau bóng áo giáp. Những người khác tập kiếm gỗ ở một khoảng rộng rãi gần sông. Nhưng những người khác đang ngủ, nấu nướng hoặc giúp dân làng vá lưới đánh cá.
Họ im lặng làm tất cả. Không ai nói lớn.
Khi tôi đi, Ngự lâm quân chỉ còn lại một phần ba lực lượng sau cuộc chiến. Nhưng tôi thấy rất nhiều gương mặt không quen, chừng một trại lính sáu mươi người. Có lẽ nhiều hơn. Họ tập luyện cùng những người khác, có vẻ hoàn toàn thoải mái.
Tôi đã chuyển một viên Thánh thạch cho đội trưởng Lucio, ra lệnh đổi nó ở chợ đen lấy tiền tái thiết Ngự lâm quân, nhưng anh còn làm được nhiều hơn tôi kì vọng, và ngực tôi dâng lên niềm hi vọng sục sôi.
Hai lính gác đứng canh ngoài một túp lều, và họ bước lên chặn đường chúng tôi, rút kiếm. Hector là người đầu tiên gỡ mũ trùm, và họ trố mắt.
“Là thống lĩnh!” Một người hét toáng lên, người còn lại bịt miệng anh ta. Anh ta nhăn nhó. “Xin lỗi.” Nhưng lời nói của anh ta đã thu hút sự chú ý của tất cả mọi người trong hang động. Và khi tôi tháo mũ xuống, một sự im lặng còn tuyệt đối hơn bao trùm tất cả.
Rồi đột nhiên chúng tôi bị vây quanh bởi những người lính nở nụ cười tươi tắn, reo lên những lời chào đón nho nhỏ, vỗ lưng chúng tôi và ôm bất kì ai.
Dân làng thì vây quanh Bão. Họ áp gấu áo ông lên má như thể nó trao cho họ một lời chúc phúc. Những tiếng khe khẽ “Lo Chato!” và “Ông ấy đã trở lại” vang khắp hang động. Bão đón nhận với vẻ cực kì thờ ơ, đầu ngẩng cao, ánh mắt tỏ vẻ chán chường. Ông hẳn đang hưởng thụ từng giây phút.
“Lùi lại,” Hector ra lệnh khi tôi bị xô đẩy quá nhiều. “Cho nữ hoàng chút không gian nào.”
Ngự lâm quân bình tĩnh lại, ngại ngùng nhìn nhau và cùng quỳ xuống.
Tôi nhìn một biển những cái đầu đang cúi xuống, ghi nhớ thật sâu giây phút ấy. Ngự lâm quân của tôi. Thần dân của tôi. Sức mạnh của tôi. “Thật tốt khi được về nhà,” tôi nói. “Và ta rất mừng được gặp lại mọi người.” Tôi định nói thêm nữa, nhưng một hình hài nhỏ bé đã vụt ra từ một túp lều.
“Elisa?” Rosario lao vào tôi, quàng cánh tay gầy gò quanh cổ tôi. Lính gác vui vẻ khẽ cười khi tôi ôm hoàng tử bé thật chặt. “Em đã bảo là chị sẽ về mà,” cậu nói. “Em đã bảo mà.”
Tôi nuốt cục nghẹn ở cổ xuống. “Em đã nói đúng.”
Cậu buông tôi ra và lao vào Hector, anh ôm cậu bé thật chặt. “Em đang ẩn náu,” Rosario nghiêm nghị nói.
“Và tôi thấy hoàng tử làm rất tốt,” Hector trả lời cũng nghiêm trang chẳng kém.
Rosario thấy Đỏ và nghiêng đầu. “Tôi bảy tuổi,” cậu bảo. “Cậu mấy tuổi?”
Đỏ nhún vai, tránh ánh mắt cậu.
“Trông cậu gần lớn bằng tôi. Cậu sáu tuổi à?”
“Tôi không nghĩ vậy,” cô bé nói với giọng coi thường.
Tôi nhướng một bên lông mày với Mara, cô hiểu ý và ôm cả hoàng tử lẫn cô bé gái. “Chúng ta vào trong làm quen với nhau nhé?” Cô nói, và tôi mở khẩu hình “Cảm ơn” với cô. Khi tất cả qua đi, tôi sẽ dành nhiều thời gian cho cậu bé. Chơi bài, tập dao gỗ, có lẽ là cả cưỡi ngựa nữa. Bất cứ việc gì cậu muốn.
Tôi quay lại với đội Ngự lâm quân, và thấy đội trưởng Lucio ở một bên. “Đội trưởng, sao anh chiêu mộ được binh lính Ngự lâm quân? Họ đã sẵn sàng vào trận chưa?”
“Bất cứ lúc nào, thưa nữ hoàng.”
Tôi không mong chờ gì hơn. “Ta thấy rất nhiều gương mặt mới. Hãy biết rằng ta rất chào đón các ngươi. Nếu thống lĩnh Hector cho rằng các ngươi đã sẵn sàng, ta sẽ chấp thuận lời thề của các ngươi vào tối nay.”
Nó nhận được hàng loạt những tiếng xì xầm phấn khích. Tuyên thệ với nữ hoàng là một việc tuyệt vời với một số người; nó có nghĩa rằng ba bữa ăn một ngày và thu nhập hằng tháng.
Tôi thấy Fernando trong đám đông và chỉ muốn vẫy tay với cậu. Bên cạnh cậu là Benito, cậu bé tôi đã đưa theo cùng từ sa mạc để huấn luyện cùng Ngự lâm quân. Cậu vẫn còn quá trẻ, nhưng chắc hẳn Lucio đã chỉ định cậu trở thành Ngự lâm quân rồi.
Và sau đó, vui mừng quá đỗi, tôi thấy bá tước Tristán, quỳ bên những người khác, bao quanh là những binh lính mặc đồ màu xanh da trời và trắng ngà của Selvarica. Chúng tôi nhìn nhau, và anh nở nụ cười rạng rỡ. Tôi biết sự hiện diện của anh ở đây nghĩa là mọi chuyện với anh không được tốt đẹp, nhưng tôi vẫn mừng vì được thấy anh.
Tôi rất muốn dành chút thời gian hàn huyên với mọi người. Tôi muốn ngủ một giấc dài và ăn đồ nóng sốt nhiều ngày. Và Chúa ơi, con chỉ muốn được tắm cho thỏa. Nhưng chẳng bao lâu nữa tướng quân sẽ phát hiện ra tôi đã đến đây; cha Nicandro không thể giữ bí mật về “đoàn hành hương” lâu hơn một hay hai ngày.
Chúng tôi phải hành động ngay hôm nay. Ngay tối nay.
Hít thật sâu và ngẩng cao đầu, tôi nói với Ngự lâm quân. “Số phận của Joya d’Arena và thế giới đang như chỉ mành treo chuông, nên hãy chú ý lắng nghe. Quân sư Franco của bá tước Eduardo, kẻ đã cố ám sát ta và bắt cóc thống lĩnh Hector, đã chết trong tay thống lĩnh.” Một vài tiếng hò reo nho nhỏ trước thông báo này. “Chúng ta đã vượt qua biên giới, tiến vào lãnh thổ Invierno và biết nhiều hơn về kẻ thù từ xa xưa của chúng ta. Sau đó chúng ta đã tới Basajuan, gặp nữ hoàng Alodia và nữ hoàng Cosmé. Để tóm lược, ta xin nói họ đã thề trung thành với ta và Joya d’Arena.”
Họ trố mắt nhìn tôi.
“Chúng ta sau đó dùng thỏa thuận mới đạt được để đổi lấy hòa bình với Invierno.” Tôi có một giây phút buồn cười khi kéo áo choàng qua đầu để có thể sờ quần dài. Tôi ném áo choàng sang bên và lấy cuộn giấy da dê khỏi túi quần rồi giơ lên với họ. “Đây là hòa ước, có chữ kí của ta và các thành viên hội đồng trị vì Invierno.”
Thêm những tiếng xì xào.
“Ta nói điều này để các bạn biết cái gì đang lâm nguy. Hiệp ước chỉ có hiệu lực nếu ta còn trị vì.” Tôi dừng lại cân nhắc những lời tiếp theo thật cẩn thận. “Nhưng đây không phải chuyện cá nhân. Hành động của chúng ta sẽ không được ghi nhớ vì chúng ta đặt nhà trị vì khù khờ, dễ loại bỏ trên ngai vàng. Hành động của chúng ta sẽ được ghi nhớ vì chúng tạo ra một bước ngoặt lịch sử và quyết định thế giới này có được yên bình hay chăng.”
Tôi cho họ một chút thời gian để ngẫm nghĩ, thấm thía.
Sau đó: “Các bạn đã sẵn sàng chưa? Các bạn có chiến đấu vì thế giới vào tối nay không?”
Chúng tôi đang ẩn náu, nên tôi không hi vọng một tiếng hô vang hay thậm chí là “Nữ hoàng vạn tuế!” Nhưng có người rút kiếm, vỗ vào đùi. Những người khác làm theo. Chẳng mấy chốc hang động đã vang dậy âm thanh từ gần một trăm binh lính sẵn sàng hi sinh tính mạng.
Chúng tôi là một lực lượng nhỏ chống lại một đội quân đông gấp bội. Tôi phải dùng họ để tấn công nhanh, mạnh và thông minh. Nhưng đó là điều tôi làm. Đó là sức mạnh của tôi.
Tôi cười láu cá, sau khi âm thanh dần ngớt, tôi cất tiếng:
“Ta có kế hoạch.”