Cuối cùng, Vimal Lahori đã được cách ly để bảo vệ. Người hứa hẹn, tức Nghi phạm 47, đã biết được địa chỉ nhà bạn gái cậu và tới đó, rõ ràng là để tra tấn cô hòng bắt cô khai ra nơi ở của chàng trai. Nhưng cô gái trẻ đã có đủ trí khôn – và lòng can đảm – để gọi cho cảnh sát và đấu lại hắn.
Trong phòng khách nhà mình, Rhyme đang nghe báo cáo chi tiết từ Amelia Sachs. Cô kể lại cuộc nói chuyện của mình với chàng trai ở một ngôi nhà an toàn của NYPD trên đảo Staten.
Sachs nói thêm rằng các cảnh sát tới hiện trường vài phút sau đó đã đánh điện xin trợ giúp định vị xe của hung thủ - một chiếc Toyota đỏ, mẫu mã chưa biết – rồi đưa Vimal đi.
Chàng trai vẫn hợp tác dù có rầu rĩ, Sachs báo cáo. Cô đã phỏng vấn cậu ta trong căn nhà an toàn tại đảo Staten, nơi cô giấu cậu ta. Tuy nhiên, cậu ta không thể cung cấp bất cứ một thông tin hữu ích nào. Cậu giải thích rằng việc mình không đi trình báo là vì sợ, mặc dù Rhyme nghi ngờ nó còn liên quan đến bi kịch ở gia đình cậu nữa, như Sachs đã gợi ý. Sachs cũng báo cáo rằng trong túi áo cậu còn vài mẩu đá – có vẻ là kimberlite. Trong đó có những chấm kết tinh, có thể là kim cương, và Rhyme tự hỏi phải chăng cậu ta đã giữ lại đôi phần hàng hóa của Patel cho riêng mình. Việc cậu đã chiếm giữ những viên đá không thuộc về mình cũng có thể là lí do khiến cậu do dự không tới gặp cảnh sát.
Quay lại với ngày diễn ra vụ án trên phố 47, cậu đang về cửa hàng sau khi làm việc vặt cho ông Patel thì bước vào giữa hiện trường khủng khiếp. Cậu đã gọi 911 và kể cho họ điều mình trông thấy.
Cô nói thêm rằng Vimal không biết gì về những viên thô đã bị đánh cắp, cũng như không có bất kỳ cuộc bàn luận nào với thầy của mình, ông Patel về vấn đề an ninh gần đây. Ông già chưa bao giờ nhắc với học trò là mình lo ngại kẻ nào đó theo dõi cửa hàng hay có cuộc gọi bất thường nào. Trước đấy cũng không có khách hàng nào tới để hỏi về kim cương nhưng thực ra lại quan tâm nhiều hơn đến camera và bảo vệ. Theo chỗ Vimal được biết, Patel chưa bao giờ có đối thủ nào trong việc kinh doanh có thể gây ra một trò bạo lực khủng khiếp như vậy. Tuy Vimal không biết chắc, nhưng cậu thấy thật vớ vẩn khi nghĩ ông Patel có mối liên hệ với tội phạm có tổ chức hoặc đã vay mượn tiền bạc từ hội cho vay lãi.
Để trả lời câu hỏi của Sachs, Vimal khẳng định điều mà họ đã loại suy ra được: Cậu là một thợ điêu khắc nghiệp dư, hi vọng làm nên tên tuổi trong giới nghệ thuật. Điều này giải thích cho những dấu vết khác tìm được tại hiện trường: ngọc bích và lapis.
Cuộc kiểm tra nhà Adeela để tìm bằng chứng Nghi phạm 47 để lại trong cuộc tấn công đã không thu được điều gì. Họ cũng không tìm được bóng dáng chiếc xe Toyota đỏ.
Các yêu cầu hỏi thăm khác, dùng đúng từ kiểu Scotland Yard duyên dáng của Edward Ackroyd, cũng không mang lại thành công nào. Kiểm tra một loạt các đăng ký khách sạn không tìm ra vị khách nào mang tên Dobyns, hay bất cứ cái tên giả nào mà AIS đã khám phá ra là của Nghi phạm 47.
An ninh Nội địa và Cục điều tra vẫn tiếp tục tìm kiếm trong các lời đe dọa khủng bố - có khá nhiều nhưng không cái nào dính dáng đến C4 hay thiết bị lehabahs bị tuồn vào nội địa, các vụ động đất giả ở trung tâm Brooklyn hay hỏa hoạn gần đó cả.
Người ta cũng đã lục soát có hệ thống các mục tiêu tiềm tàng – những ngôi nhà gỗ hoặc tòa nhà nằm trong bán kính tám trăm mét quanh công trường – nhưng không thấy lehabahs nào trên các đường ống ga.
Edward Ackroyd không tìm được ai đang cố đẩy những viên thô trên thị trường chợ đen.
Rhyme đẩy xe đến cửa sổ và nhìn ra ngoài bầu trời xám xịt, lặng gió. Dường như cả những cây xanh cũng đang bất động, màu sắc của chúng nhạt nhòa đi. Bên kia đường, một người đàn ông đi bộ qua, chú ý tránh các vũng nước lạnh buốt. Con chó của ông ta – một loại lông xù nhỏ - nhảy qua chúng mà không mảy may ưu tư gì trên đời.
Rhyme nhắm mắt lại trong lúc nản lòng.
Và rồi như mọi khi – không thường xuyên lắm nhưng thỉnh thoảng cũng có – vẫn xảy ra, một cú đột phá cho vụ án đến thật bất ngờ.
Đột phá đến trong hình hài của Ron Pulaski, anh ta vừa bước vào phòng khách vừa gật đầu chào Rhyme và Sachs vừa nói, “Có thể có gì đó ở đây này, Lincoln. Về tên Bốn mươi Bảy.”
Để phân biệt mẩu thông tin này với nhiệm vụ bí mật khác của họ, làm việc cho luật sư bào chữa nhân danh El Halcón.
“Chà, tôi thì chẳng có lấy một đầu mối chết tiệt nào cả. Vậy thì, sao nào?”
“Tôi tự hỏi ai là người có động cơ để ngăn hoạt động khoan này. Chúng ta đã nói chuyện về các nhà bảo vệ môi trường. Nhưng dường như điều đó quá hiển nhiên. Vì thế, tôi bắt đầu nhìn ngó các đối thủ cạnh tranh trong ngành năng lượng.”
Rhyme nói với giọng vừa phải hơn, “Tốt lắm. Sáng kiến. Cậu tìm được gì rồi?”
“Khiếu nại lên FTC58 về hoạt động thương mại không công bằng của Algonquin Power.”
58 FTC là viết tắt của ‘Federal Trade Commission’ - Ủy ban Thương mại Liên Bang
Chà, việc này thú vị đây.
“Rõ ràng là công ty này đã thuê một hãng vận động đối kháng…”
“Một cái gì?”
“Hãng vận động đối kháng. Họ đào bới – hay giả mạo – thông tin để nói xấu đối thủ cạnh tranh hoặc các ứng cử viên chính trị mà anh phải đối đầu.”
“Đối kháng. Có lí đấy. Mặc dù không hiểu sao tôi lại chẳng thích thuật ngữ này. Tiếp đi.”
“Hãng này được thuê để hạ tín nhiệm các nguồn năng lượng thay thế - bất cứ một công nghệ nào có thể làm giảm thu nhập của ngành sản xuất điện từ nguồn dầu và ga truyền thống. Chẳng hạn họ phát tán các lời đồn về những trạm điện gió giết chết hải âu. Rồi các tấm pin năng lượng Mặt Trời làm mái nhà nặng hơn và dễ sụp hơn trong hỏa hoạn – và làm bị thương các lính cứu hỏa. Thực ra nhân viên của họ đã bỏ xác hải âu gần trạm điện gió – dù chúng bị giết ở chỗ khác – và đăng tải những bức ảnh chụp hỏa hoạn ở những tòa nhà có trang bị pin Mặt Trời, mặc dù những tấm pin ấy chẳng liên quan gì đến việc mái nhà bị sụp cả.” Anh ta mỉm cười. “Và họ còn săm soi các nghiên cứu về việc liệu…”
“Việc khai thác địa nhiệt có tạo ra động đất không.”
“Chính xác.”
“Algonquin,” Sachs lẩm bẩm. “Chính là người chúng ta thấy trên tivi đó à?”
Thom là người nhớ lại. “C. Hanson Collier. Chủ tịch hay CEO gì đấy.” Trợ tá cau mày. “Nhưng chẳng phải ông ta đã nói mình ủng hộ địa nhiệt sao?”
Sachs nói, “Ông ta buộc phải làm vậy, không đúng sao? Tỏ ra vô tội. Và giờ khi nghĩ lại, có phải ông ta đã nói cái gì đó đại loại như là ít có khả năng xảy ra động đất? Hoặc nhìn chung thì nó an toàn. Toàn lời khen kiểu nửa vời.”
Rhyme đánh mắt sang phía cô.
Cô gật đầu và nói với Pulaski, “Lái xe một chuyến nào.”
Amelia Sachs đã từng có mặt ở đây.
Không lâu trước đây, vài người ở công ty Năng lượng hợp nhất và Chiếu sáng Algonquin ở Astoria, Queens đã bị tình nghi trong một loạt vi phạm liên quan đến mạng lưới điện của thành phố New York.
Sachs và Rhyme đã nhận vụ án.
Công ty chịu trách nhiệm cung cấp điện và năng lượng sưởi trên phần lớn khu vực New York này có các cơ sở chính và trụ sở trên Sông Đông – bên kia khu Midtown, Manhattan. Công ty có vài dãy nhà, với tòa nhà chính – mặt tiền là những tấm kính to đùng màu đỏ và xám – cao hơn mặt phố tới sáu mươi mét. Tòa nhà có các tuốc-bin này chính là trái tim của khu liên hợp, và những đường ống cũng như dây điện – vừa dày vừa cứng – chạy khắp nơi.
Vươn cao bên trên đường phố là bốn ống khói lừng lững, cũng được sơn màu đỏ và xám, trên cùng gắn đèn đỏ nhấp nháy để báo hiệu cho các máy bay tầm thấp, nơi mà lúc này Sachs và Pulaski đang lái xe đến gần. Vào mùa hè, dường như những ống khói này không tỏa ra thứ gì nhưng ngày hôm nay, với cái lạnh tháng Ba không chịu buông tay, từng cụm hơi vẫn len lỏi lên trên rồi hòa vào bầu trời màu trắng đục.
Cô đỗ chiếc Torino Cobra lại và giơ phù hiệu với bảo vệ ở cổng chính, nói với anh ta rằng cô có hẹn với CEO. Người đàn ông to lớn, nước da trắng nhợt như bầu trời bên trên, liếc nhìn cả cô lẫn Pulaski, người vẫn đang mặc đồng phục. Anh ta gọi một cuộc và gật đầu không với ai cả, bảo cô chỗ đỗ xe.
Bảo vệ thứ hai gặp họ ở sảnh và đưa họ tới cùng chỗ Sachs đã đến vài năm trước, trong vụ án lần trước: khu văn phòng. Sàn nhà như bước ra từ thập kỷ 50, các đồ gỗ ‘hiện đại’ được bọc nệm màu nâu, trắng và nâu vàng, thiết kế theo hình khối.
Các bức tường được trang trí bằng những bức ảnh đen trắng chụp nhà máy điện qua các thời kỳ.
Nhân viên ở đây – hầu hết là đàn ông – cũng ăn mặc như thể họ đã bị đóng băng trong thời gian của bảy mươi năm trước. Áo sơ mi trắng, cà vạt tối màu, bộ vest tối màu với phần áo thường được cài khuy đầy đủ. Tóc tai gọn ghẽ. Sachs tưởng tượng cô có thể ngửi thấy cả mùi Brylcreem như của cha mình, mặc dù chắc chắn đây chỉ là một cảm giác tâm lý chứ không phải từ khứu giác.
Bảo vệ đưa họ đến một phòng chờ bên ngoài văn phòng CEO, C. Hanson Collier. Khi cô và Rhyme thụ lý vụ án trước, ông ta còn chưa phải là người đứng đầu công ty, nhưng cô tự hỏi liệu mình có vô tình đi qua ông ta trên các hành lang ở nơi này từ hồi đó không.
Cô nhìn xuống bàn cà phê hình quả thận, trên đó là các tập tạp chí thương mại. Electricity Transmission Monthly. Power Age. The Grid.
Một tờ Time mềm rũ, ghi ngày cách đây cả sáu tháng. “Chúng ta sẽ xử lý thế nào?” Pulaski hỏi.
“Rung chuông dọa khỉ,” Sachs nói. “Cho ông ta biết cậu đã tìm được bản ghi nhớ. Xem phản ứng.”
Đôi khi bạn kết thúc một vụ án nhờ ADN và các bằng chứng từ dấu vết hiện trường. Đôi khi nhờ một cái nháy mắt và một giọt mồ hôi. Một người bạn và đồng nghiệp của Sachs và Rhyme là thanh tra cảnh sát bang California. Kathryn Dance. Chuyên môn của cô là ngôn ngữ cơ thể. Dù không rành rẽ về chuyên ngành cử chỉ như Dance, một cựu cảnh sát đường phố như Sachs cũng có chút tài năng trong kỹ năng đọc vị con người này.
Dù sao họ cũng chẳng có nhiều lựa chọn. Không có bằng chứng pháp y nào kết nối vị CEO với các vụ động đất hay với Nghi phạm 47. Thực ra, cô đã biết trước nếu ông ta thực sự là chủ mưu, ông ta sẽ không có mối liên hệ cá nhân nào – trừ việc sắp xếp tiền nong trả cho thủ phạm. Và ngay cả việc đó cũng không chắc chắn. Có khi chính hãng đối kháng đã thuê hắn và chỉ gửi Collier hóa đơn cho “phân tích báo chí và áp đặt câu chuyện”.
Một cô gái trẻ chỉn chu trong bộ vest nâu bước vào ngưỡng cửa và yêu cầu Sachs cùng Pulaski đi theo cô ta. Họ đi qua một hành lang dài khác, cuối cùng cũng tới được văn phòng CEO. Cô trợ lý ra hiệu cho họ bước vào.
Collier trông giống như đã từng là một người khai mỏ than đá - dự đoán nghề nghiệp này không hẳn là vô lý, khi giờ đây ông ta đang là người đứng đầu một công ty năng lượng. Nhưng Sachs đã tìm hiểu một chút và biết được rằng trước khi chèo lái con thuyền này ông ta từng là CEO của một nhà sản xuất quần áo. Cô cho là các quy tắc trong kinh doanh được áp dụng như nhau cho dù bạn có bán áo lót hay là volt.
“Mời vào, thanh tra. Sĩ quan.”
Họ bắt tay và Collier ra hiệu cho họ ngồi xuống. Vẫn những chiếc ghế, sô pha và bàn uống nước như vài năm về trước.
“Nào, tôi có thể làm gì cho hai vị?”
Sachs nhận trọng trách. “Ông Collier, ông rành rẽ câu chuyện về những vụ động đất ở Brooklyn chứ?”
“Tất nhiên. Rất kỳ lạ.” Ông ta cởi khuy áo vest màu xám đậm. Lá cờ Mỹ được gài vào lỗ khuyết trên ve áo ông ta đang bị ngược. “Dự đoán là ai đó đã dùng chất nổ để làm giả động đất. Không ai biết tại sao. Có lẽ là để làm cho nhà máy địa nhiệt phải đóng cửa. Đó là điều các nhà báo đang nói. Một vụ phá hoại trong ngành công nghiệp.” Thêm nhiều nếp nhăn nữa hằn lên trên gương mặt đã nhăn nheo và nhợt nhạt của ông ta; nó là những nếp nhăn tự nhiên chứ không phải do ánh Mặt Trời. Cứ như là ông ta vẫn còn đang làm việc – hay thậm chí là sống – sâu dưới lòng đất. “Và chính xác thì tại sao hai vị lại có mặt ở đây, Thanh tra? Có phải như tôi nghĩ không?”
“Bản ghi nhớ. Khiếu nại của FTC chống lại Algonquin.” Collier đang gật đầu. “Cô biết không, những con chim bị chết ấy? Chẳng có ai giết chúng cả. Công ty tôi lại đi thuê ai đó lái xe vòng quanh và tìm những con hải âu chết ư. Cô có tưởng tượng được một nhân viên thực tập nào đấy, trong ngày đầu tiên đi làm không? ‘Cần mấy con chim đã chết, nhóc ạ.’ Mặc dù thực tế đúng là những chiếc quạt gió đã giết chúng. Công ty chỉ thêm vào vài con - để gây hiệu ứng thôi. Còn các vụ cháy với tấm pin Mặt Trời? Đó là một thực tế đã được nhiều người biết đến. Những bức ảnh ấy không phải là chụp chính xác những trần nhà đã sụp vì tấm pin. Nhưng thế nào là một chút lộn xộn giữa các nhà tư bản? Các vị đang nghĩ chúng tôi đã bày ra các vụ nổ để làm cho nó giống như giàn khoan đã gây ra động đất ư.”
“Có đúng vậy không? Hãng đối kháng của các ông đã nghiên cứu nó mà. Nó nằm trong bản ghi nhớ.”
“Nó nằm trong bản ghi nhớ. Nhưng nếu cô có nghe tôi nói trên truyền hình, mà tôi đoán là cô đã xem, cô sẽ nhớ lại là tôi đang biện hộ cho Northeast và giàn khoan địa nhiệt.”
“Đó không phải câu trả lời cho câu hỏi của tôi. Ông có đang phá hoại công trường đó không?”
“Không. Nó đã đủ là câu trả lời cho cô chưa?” “Thế còn hãng đối kháng?”
“Đã sa thải họ từ một năm trước. Tai tiếng với công chúng không đáng để chúng tôi làm thế. Một vài con hải âu chết. Những cái chết vì lí do tự nhiên. Cô phải đọc những bức thư căm giận mà chúng tôi nhận được.”
“Việc đó,” Pulaski chen vào, “có lẽ đã dạy ông phải cẩn trọng hơn.”
“Không, anh cảnh sát, nó dạy chúng tôi phải thông minh hơn – trong cách xử lý với nguồn năng lượng thay thế. Chúng tôi không cố đẩy họ đến chỗ đóng cửa nữa.”
Ông ta lôi ra tờ quảng cáo của công ty từ trong ngăn kéo bàn làm việc và thả nó trước mặt họ. Mở ra trang đầu tiên ông ta chỉ vào một đoạn. Các công ty con thuộc sở hữu toàn phần của Algonquin gồm có ba trạm điện gió ở Maine và một nhà máy sản xuất pin mặt trời.
“Chúng tôi mua lại họ.” Ông ta mở thêm một ngăn kéo, lấy ra một tập tài liệu pháp lý rất dày và thả nó xuống với một tiếng bộp to. “Chúng tôi sẽ giữ bí mật chuyện này, cô không phiền chứ. Nó còn chưa được công khai.”
Sachs nhìn vào trang bìa của tài liệu.
THOẢ THUẬN MUA
TRONG ĐÓ, Algonquin Consolidated Power and Light, Inc. (“Algonquin”), mong muốn mua lại hai mươi phần trăm (20%) cổ phiếu phổ thông (“Cổ phần”) của Northeast Geo Industries, Inc. (“Northeast”), và Northeast mong muốn bán lại Cổ phần cho Algonquin.
DO ĐÓ, xem xét đến các nghĩa vụ của cả hai phía được liệt kê sau đây, hai bên đồng ý với các điều sau:
Cô không buồn lật sang trang. “Ông đang mua lại cổ phiếu của công ty ấy?”
“Dần dần, nếu nó có lợi nhuận, chúng tôi sẽ mua nốt. Nó cần phải tự chứng tỏ mình. Khai thác địa nhiệt sâu trong lòng đất – trích năng lượng từ các nguồn núi lửa - để tạo ra điện là một hoạt động có thể sinh lời. Còn khoan trên bề mặt ở quy mô lớn ư? Bồi thẩm đoàn vẫn còn chưa chấp nhận chuyện đó. Ở nhà cô có lò sưởi hay là máy bơm nhiệt tổng không?”
“Lò sưởi.”
“Đúng đắn đấy. Chỉ những người yếu đuối mới dùng máy bơm nhiệt. Địa nhiệt là một loại bơm nhiệt. Nhưng ngoài kia có cả đống những kẻ yếu đuối đòi bảo vệ hệ sinh thái. Nên tôi hi vọng là khoản đầu tư của chúng tôi sẽ hiệu quả. Để xem.”
Điện thoại của Sachs rung lên báo tin nhắn. Cô nhìn xuống. Cô đứng dậy. Pulaski liếc sang phía cô và cũng đứng lên. “Cảm ơn vì ông đã dành thời gian, ông Collier.”
“Cô Evans sẽ dẫn hai vị ra.” Ông ta không nói gì thêm, không đứng dậy. Ông ta mở một tập tài liệu và bắt đầu đọc.
Cô trợ lý xuất hiện và hộ tống họ đi xuống sảnh.
Khi họ đi vào bãi đỗ xe, ra khỏi tầm nghe của các nhân viên công ty, cảnh sát trẻ thì thầm, “Chúng ta cứ thế bỏ qua hay sao? Ông ta chỉ cho chúng ta xem một tờ hợp đồng. Có thể là ông ta chỉ in nó ra phòng khi ai đó đến hỏi về âm mưu làm động đất thôi chứ. Làm sao ta biết ông ta không phải kẻ đứng sau?”
“Vì cái này.”
Sachs cho anh ta xem điện thoại của mình, tin nhắn cô vừa nhận được từ Lon Sellitto.
“Ồ. Thế à. Chúng ta có sang New Jersey không?” “Chúng ta sẽ sang New Jersey.”