Rhyme đang nhìn quanh dinh thự, biết rằng Sellitto và Sachs đang ở đâu đó khác. Việc này kỳ lạ thật. Họ vẫn chưa ra về - áo khoác vẫn còn treo ở mắc áo gần đó.
Anh muốn họ ở lại để tiếp tục nghiên cứu biểu đồ bằng chứng, để xem các ghi chú này có hé lộ thêm đầu mối nào về vị trí của nghi phạm người Nga hay quả bom tiếp theo không. Tấm bảng trắng, trang trí bằng nét chữ cẩn thận, vẫn tiếp tục im lặng và còn bí ẩn, lẩn lút hơn cả mọi khi.
Khi anh sắp sửa gọi vợ mình và viên thanh tra quay lại phòng khách thì có tiếng gõ cửa.
Rhyme và Ron Pulaski nhìn vào màn hình an ninh: bốn người đàn ông, mặc vest. Một trong số họ đang giơ thứ gì đó lên camera. Có vẻ là thẻ chứng minh gì đấy.
Rhyme nheo mắt. FBI.
À, hiểu rồi.
Sachs, Sellitto và Thom đều nhanh nhẹn xuất hiện từ phía sau nhà. Rhyme để ý biểu cảm của họ. Và anh nghĩ: họ biết về El Halcón rồi.
“Có chuyện quái quỷ gì thế này, Lincoln?” Mel Cooper hỏi. “Tôi không hoàn toàn chắc nhưng tôi nghĩ Lính mới và tôi sắp bị bắt.”
“Cái gì?” Pulaski gắt lên.
“Nào, mở cửa đi Thom. Chúng ta đâu có muốn họ phải đạp cửa xông vào, đúng không?”
Bốn người nhanh nhẹn bước vào tiền sảnh rồi vào phòng khách. Ba người là đặc vụ FBI và họ được phân bổ rất đúng đắn, như các diễn viên trong một quảng cáo cho công ty tư vấn vậy: một phụ nữ da trắng, một người đàn ông da đen và một người gốc Á. Họ không hài hước một tẹo nào nhưng đó là phẩm chất được đề cao trong rất nhiều ngành nghề, lực lượng hành pháp xếp hàng đầu trong số đó. Họ chắc đã biết gần như không có nguy cơ nào từ phía những người ở nhà này nhưng cặp mắt nhanh nhẹn của họ vẫn quét qua tất cả, đánh giá rủi ro.
Người cuối cùng trong bộ tứ là Henry Bishop, công tố viên liên bang gầy guộc đến từ quận Đông. Anh ta cao lớn hơn tất cả mọi người trong phòng.
“Lincoln Rhyme.” Đặc vụ đang nói với anh là một chàng trai trẻ dáng vẻ khỏe khoắn tên là Eric Fallow.
Quay sang anh ta, Rhyme nói, “Không thể giơ tay được. Xin lỗi cậu.”
Cả đặc vụ lẫn tất cả những người khác trong phòng đều không phản ứng gì với câu đùa.
Bishop nói với Fallow, “Tôi sẽ nói chuyện với ông Rhyme. Cậu trông chừng Cảnh sát Pulaski.”
Fallow quay sang chỗ người trẻ hơn. “Sĩ quan, để nguyên tay ở chỗ chúng tôi có thể trông thấy. Tôi sẽ tước vũ khí của cậu.”
Pulaski đối đầu với anh ta. “Còn lâu. Chuyện này là sao?” Mặc dù vậy biểu cảm bối rối của anh ta đã tố cáo. Anh ta biết chính xác chuyện này là gì.
“Linc,” Sellitto nói, rồi rơi vào im lặng. Anh ta và Sachs có thể đã được Dellray dặn trước phải giả câm – nếu Dellray đích thực là người đã thông báo cái tin Rhyme làm việc cho El Halcón. Rhyme nhìn sang Sachs nhưng cô tránh ánh mắt anh.
Có thể hiểu được.
Hai đặc vụ khác bước tới. Một người cầm khẩu Glock của Pulaski.
Fallow nói, “Mời đưa tay ra sau.”
“Việc ấy thực sự không cần thiết đâu,” Rhyme nói bằng giọng có lẽ hơi ngân nga quá đà. Tạo ấn tượng giễu cợt. Mà như vậy là không công bằng.
Fallow vẫn còng tay Pulaski.
“Trả lời tôi, Bishop. Có chuyện gì thế này?” Sellitto đã hồi phục và đang trình diễn một màn ngạc nhiên đáng tin cậy.
“Thật đấy,” Rhyme nói. “Không cần thiết đâu.”
Bishop nói, “Anh Rhyme, anh và cảnh sát Pulaski đang gặp rắc rối lớn. Chúng tôi bắt cả hai người vì tội cản trở công lý và cấu kết nghiêm trọng, sử dụng thông tin có tính chất làm bằng chứng mà không được phép.”
Mắt Lính mới từ từ quay sang Rhyme.
Cậu có thể gặp rắc rối đến chừng nào khi nhiệm vụ của cậu là vì một mục đích cao cả hơn…?
Công tố viên nói tiếp, “Trước đây anh đã rất có ích, Lincoln.
Tôi thừa nhận.”
Chỉ có ích thôi à? Rhyme nghĩ chua chát.
“Và điều đó sẽ được cân nhắc trong tương lai, khi chúng ta tiến hành thảo luận xin giảm tội. Nhưng giờ, đặc vụ Fallow, mời đọc quyền của cảnh sát Pulaski và anh Rhyme cho họ nghe.”
Sellitto từ bỏ. “Có đúng vậy không, Linc?” Một thoáng tuyệt vọng trên mặt anh ta.
Rhyme cũng thấy cả đôi môi mím chặt của Sachs. Cái nhìn trong mắt cô.
Và anh quyết định đã đến lúc.
“Được rồi, tất cả mọi người. Được rồi. Henry – tôi gọi anh là Henry được không?” Rhyme hỏi.
Bishop ngạc nhiên, “Ừm. Thường là Hank.”
“Được rồi, Hank. Sự thật là, tôi vừa định gửi cho anh một bản báo cáo về tình thế của chúng tôi. Nó sắp xong rồi.”
Cặp mắt của công tố viên không hề nao núng nhưng Rhyme tin là đã có một tia ngạc nhiên trong đó. Anh gật đầu với màn hình máy tính, trên đó quả thực là một bức thư điện tử rất dài đề địa chỉ gửi văn phòng Bishop. Bishop không nhìn theo mà vẫn chăm chú vào Rhyme. Anh lại nói, “Viên thanh tra đội trưởng của Hạt Nassau, người đã bị bắn trong vụ hạ El Halcón ở Long Island ấy?”
Bishop nói, “Chắc chắn rồi. Barry Sales. Anh ta sẽ là một nhân chứng cho chúng tôi trong vài ngày tới.”
“Barry từng là đồng nghiệp của tôi nhiều năm trước. Một trong những cảnh sát hiện trường tốt nhất mà tôi từng làm việc cùng.” Rhyme ngừng một lát. “Khi tôi nghe nói về vụ bắn nhau, tôi đã muốn tình nguyện làm cố vấn cho bên công tố, xử lý vật chứng. Tôi muốn đảm bảo là dù có ai ở đằng sau, chúng ta cũng có một cáo trạng chắc chắn bất di bất dịch chống lại hắn. Và tôi đã muốn được phân tích vật chứng trong vụ án.”
“Có, tôi nhớ,” Bishop nói. “Anh nằm ở hàng đầu trong danh sách nhân chứng là chuyên gia khám nghiệm.”
“Nhưng tôi lại phải có mặt ở DC trong một nhiệm vụ khác. Rất tiếc, nhưng không làm gì được. Rồi vài ngày trước, luật sư của El Halcón gọi cho tôi. Ông ta muốn thuê tôi chứng minh rằng ai đó trong đội bắt giữ đã cài cắm vật chứng để đổ tội cho El Halcón.”
Bishop buột miệng, “Chuyện vớ…” “Hank. Làm ơn?”
Với một cái nhăn mặt, anh ta giơ một lòng bàn tay ra hiệu nói tiếp về phía Rhyme.
Rhyme tiếp, “Anh cũng ý thức được những điểm yếu trong vụ của mình chứ?”
Người đàn ông cao lớn đổi chân không thoải mái. “Nó không phải là một vụ rõ như ban ngày, không hề.”
“Đầu tiên, họ tuyên bố là El Halcón trốn trong nhà tắm suốt thời gian ấy. Thứ hai là tàn dư lượng thuốc súng đã bị bôi lên tay ông ta. Ông ta không hề bắn khẩu súng của Cody.” Rhyme gật đầu với máy tính. “Tôi chỉ vừa mới chứng minh rằng cả hai điều đó đều là sai. Tôi đã bác bỏ giả thuyết của họ hoàn toàn. Nhà tắm ư? Trên sàn nhà mà El Halcón khai mình đã nằm úp bụng suốt có một lượng dư chất của một loại thuốc tẩy đặc biệt. Cảnh sát Pulaski đã phân tích hiện trường ở đó và lấy mẫu. Tôi biết tính chất kết dính của thành phần chlorine trong loại thuốc tẩy cụ thể đó. Nếu El Halcón có mặt ở nhà tắm, các phân tử tương ứng sẽ xuất hiện trong quần áo hoặc giày của ông ta. Nhưng không có.”
Mắt Bishop lướt sang chỗ Fallow, với tư cách là tổ trưởng tổ điều tra, đáng lẽ chính anh ta phải là người phát hiện ra điều này. Khuôn mặt của đặc vụ vẫn hoàn toàn vô cảm.
“Còn về việc chứng minh ông ta đã bắn khẩu súng đó vào cảnh sát, đúng là dấu vân tay của El Halcón không có trên vũ khí. Nhưng luận điểm của anh là El Halcón đã cởi khuy tay áo sơ mi, kéo ống tay xuống và cầm súng qua làn vải áo? Điều đó giải thích việc không có dấu vân tay trên súng nhưng lại có dư chất thuốc súng.”
Bishop gật đầu. “Giả thuyết, đúng vậy. Nhưng tôi hi vọng bồi thẩm đoàn sẽ suy luận đó là cách lão ta cầm khẩu súng khi bắn.”
Rhyme kiềm chế một cái cau mày. “Họ không cần phải suy luận. Tôi đã chứng minh là ông ta đã cầm súng qua ống tay áo.”
Bishop chớp mắt. “Bằng cách nào?”
“Đó là một khẩu Glock 22, bắn đạn Luger chín mili. Vận tốc giật lại sẽ là năm phẩy ba mươi tư mét trên giây và lực giật là bốn phẩy năm chín mét trên ki-lô-gam. Chừng đó lực đẩy là khá lớn đối với các sợi vải của chiếc áo sơ mi dệt lỏng mà El Halcón đã mặc. Phòng thí nghiệm đã chụp các bức ảnh qua kính hiển vi để cho thấy dấu vết trực quan của thuốc súng. Tôi chỉ nhìn vào chúng và thấy lực đẩy của súng đã làm gì với các sợi vải. Chỉ có hành động bắn một khẩu súng mới tạo ra các hình xô lệch như vậy. Tất cả đều nằm trong bản báo cáo mà tôi đã viết. Bồi thẩm đoàn sẽ phải suy luận chính viên đạn mà El Halcón bắn ra đã trúng phải Barry, nhưng đó là một kết luận hợp logic, vì ở thời điểm Barry bị bắn, rõ ràng Cody đã chết.”
Bishop nhất thời không nói được lời nào.
“Tôi, à, tốt lắm, Lincoln. Cảm ơn anh.” Rồi anh ta cau mày. “Nhưng tại sao anh lại không kể cho tôi nghe trước?”
“Lỡ như trong lời buộc tội của họ có một phần sự thật?” Rhyme đốp lại. “Lỡ có ai đó đã làm sai lệch bằng chứng thì sao? Nếu vậy, tôi sẽ phải tìm ra ai và sai phạm đến đâu để cho anh biết. Hay, nói thật, có phải chính anh là người đã có hành vi giả mạo, tôi sẽ phải gọi cho tổng chưởng lý ở Washington.”
Câu đó làm Sellitto cười.
“Vậy là anh đã giả vờ đồng ý giúp El Halcón để củng cố vụ án của chúng tôi?”
“Không hẳn. Chỉ là cầu may thôi. Hiển nhiên là còn một lí do khác.”
“Đó là?”
“Để tìm ngài X, tất nhiên rồi.” Rhyme càu nhàu. “Về việc này thì tôi đã không thành công lắm.”
“Ngài X?” Bishop nheo mắt. Môi anh ta mím lại một giây. “Ồ. Ý anh là đồng bọn người Mỹ của El Halcón.”
Hiển nhiên…
“Có thể hắn không có mặt ở vụ bắn nhau nhưng là người đứng đằng sau toàn bộ tổ chức.”
Fallow gật đầu. “Chúng tôi chắc chắn rằng công ty của hắn sở hữu khu liên hợp nhà kho, nhưng không lần theo được.”
“Và hắn cũng phải chịu trách nhiệm cho vết thương của Barry Sales y như El Halcón. Nhưng tôi không tìm được bất kỳ mối liên hệ nào.”
Bishop thở dài. Sự thất vọng rành rành hiện trên mặt lúc anh ta nói, “Chúng tôi đã làm tất cả. Chúng tôi đã tìm khắp mọi nơi. Mọi tài liệu, theo mọi đầu mối. Không có gì hết.”
Fallow nói thêm, “Các đội CI60, theo dõi. Thậm chí tôi còn gọi vào cả CIA61 và NSA62 để tìm các cuộc liên lạc với nước ngoài. Dù gã này là ai, hắn như một con ma vậy.”
60 CI là viết tắt của ‘Criminal Investigation’ – Đội điều tra Hình sự
61 CIA là viết tắt của ‘Central Intelligence Agency’ – Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ
62 NSA là viết tắt của ‘National Security Agency’ – Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ
Rhyme nói, “Tôi đã hi vọng có một mẩu bằng chứng nào đó, hoặc vài lời gợi nhắc nào trong các ghi chú dẫn tôi tới chỗ tên đồng bọn người Mỹ.” Một cái nhún vai. “Nhưng không có gì.”
“Nhưng anh đã củng cố vụ án chống lại El Halcón, Lincoln.
Cảm ơn anh vì điều đó.”
Bishop dành cho Rhyme thứ mà anh đoán là một nụ cười khác hẳn cá tính anh ta. Anh nói, “Vậy anh sẽ xử lý đống tiền phí mà ông ta trả anh như thế nào?”
Rhyme nói, “Ồ, tôi bỏ vào một quỹ ủy thác không thể hủy bỏ cho Barry. Không nêu danh tính. Cậu ấy sẽ không biết nó tới từ đâu cả.”
Sellitto cười. “Anh có nghĩ là Carreras-López sẽ không vui vẻ gì về chuyện đó không? Anh nghĩ ông ta sẽ làm gì?”
Rhyme nhún vai. “Ông ta là luật sư. Cứ để ông ta kiện tôi.” Bishop gật đầu với Fallow và liếc vào cổ tay Pulaski. Đặc vụ tháo còng cho anh ta, và không nói thêm lời nào, cả bốn cùng ra về.
Rhyme theo dõi họ đi ra. Pulaski và Cooper nói gì đó. Anh không nghe thấy. Anh đang mải mê với một ý nghĩ duy nhất. Một hình ảnh thì đúng hơn. Của Barry Sales, bạn anh.
Một lần nữa anh nghĩ đến từ mà mình đã thốt ra khi Carreras- López mới tới tìm anh lần đầu tiên, một từ mà không nghi ngờ gì là tay luật sư bào chữa đã hiểu theo nghĩa trái ngược với ý định của Rhyme: Công lý.
Rhyme liếc sang Sachs, cô vẫn đang lảng tránh ánh mắt anh. Rồi anh nghe thấy điện thoại cô rung lên.
Cô liếc nó. “Edward Ackroyd.” Cô nghe máy và nói chuyện một lát. Anh có thể đoán từ cách mắt cô nheo lại – dù rất nhẹ - rằng tin tức này quan trọng.
Khi cúp máy, cô nói, “Người bán lẻ ấy? Người đã đem Edward tới chỗ Shapiro? Anh ta đồng ý nói chuyện với chúng ta. Nhưng chỉ thường phục thôi, không được kéo cảnh sát tới. Anh ta lo khách hàng trông thấy họ. Edward đã đề cử tôi và anh ta đồng ý.”
Rồi cô đi đến bên Rhyme và cúi lại gần. Chỉ có anh nghe được điều cô nói, “Chưa hoàn toàn sẵn sàng, nhỉ?”
Cô đang nhắc tới hoạt động âm thầm liên quan đến luật sư của El Halcón. Nghĩ đến đó, anh không hoàn toàn chắc tại sao mình lại không đề cập với cô về chuyện này một chút nào. Có thể là anh muốn giữ cô ở một khoảng cách nhất định phòng khi có chuyện không hay. Lối cư xử bề trên của anh, giờ thì anh đã hiểu.
Môi anh mím lại. Anh nhìn vào mắt cô. “Chưa, anh chưa làm được. Đáng lẽ phải thế.”
Cô cười. “Ý em là cả hai ta. Em đã không kể cho anh nghe chuyện ở giàn khoan. Anh không kể em nghe cuộc điều tra nho nhỏ của anh.”
Anh nói, “Sau chừng ấy năm, chúng ta vẫn còn mới mẻ với việc này, Sachs. Anh sẽ không lặp lại sai lầm đó nữa.”
“Em cũng vậy.” Cô hôn anh thật sâu rồi đi ra cửa. “Em sẽ gọi từ trong thành phố.”