Amelia Sachs cảm nhận từng viên sỏi bằng lưng mình khi chiếc Ford cũ xóc nảy trên những con phố gập ghềnh ở khu Hạ Đông. Cú ngã ở công trường xây dựng – đoạn lảo đảo đầu tiên trên tấm ván chứ không phải lớp bùn dù đáng sợ nhưng còn êm ái – đã làm vặn xương sống cô theo một cách tinh vi nào đấy.
Một tiếng thịch nữa. A, cú đó đau thật.
Cũng có chỗ có nhựa đường nhưng hầu hết là đá, gạch và các miếng sắt vá đường.
Chiếc Torino Cobra được làm ra để đi trên đường bằng phẳng. Sachs vẫn luôn có chút mủi lòng với khu vực này. Vài kẻ gọi tắt nó là LES63, cái tên cô không bao giờ chấp nhận. Cái tên lóng phóng túng quá đà, đối lập với bản chất nơi này. Nó có một lịch sử đa dạng và đầy màu sắc hơn bất kỳ phần nào khác của Manhattan: Hồi cuối thế kỷ mười chín, nơi này đã trở thành nhà của người Đức, người Nga, người Ba Lan, người Ukraina và các dân nhập cư khác đến từ Châu Âu. Khu dân cư đông đúc, toàn những căn hộ tối mù và chật chội cùng những con phố đầy xe đẩy tay lộn xộn ấy đã sản sinh ra các nghệ sĩ như James Cagney, Edward G.Robinson và nhà Gershwin. Các hãng phim như Paramount, Metro-Goldwyn-Mayer và 20th Century Fox đều có thể lần theo tổ tiên của họ tới khu Hạ Đông này.
63 LES là viết tắt của Lower East Side – khu Hạ Đông
Khu vực này đã trở thành một vùng đất hợp chủng quốc thực sự đầu tiên ở thành phố New York sau Đại chiến II, khi những người da đen và Puerto Rico gia nhập với đám dân da trắng lâu đời ở đây và mọi người cùng chung sống khá hòa hợp.
Khu Hạ Đông cũng là nơi diễn ra thảm kịch tồi tệ nhất của thành phố trước vụ 11 tháng Chín. Tàu General Slocum, một chiếc tàu được thuê để chở 1300 người Mỹ gốc Đức tới sự kiện của một nhà thờ, đã bốc cháy trên Sông Đông. Hơn một ngàn hành khách đã chết, và nỗi buồn quét qua cộng đồng này như một bệnh dịch, gây ra một cuộc di cư. Gần như toàn bộ cư dân trong khu Little Germany ở khu Hạ Đông đã di chuyển vài cây số lên phía bắc và tái định cư ở Yorkville.
Bỏ qua các chi tiết kiểu Discovery Channel, Amelia Sachs có mối liên hệ đặc biệt với khu vực này. Chính ở đây, nhiều năm về trước, cô đã giải quyết vụ trọng án đầu tiên – ngăn chặn một vụ cướp có vũ trang trong giờ nghỉ. Cô đang trong một buổi hẹn hò sáng Chủ nhật, và cô cùng với – tên anh ta là gì nhỉ? Fred. Không, Frank. Cô và Frank đang đi bộ về nhà sau khi ăn một bữa no ê càng ở Katz’s Deli thì người bạn đồng hành của cô bất ngờ đứng lại. Anh ta run rẩy, chỉ bằng một ngón tay. “Này. Gã kia, thấy không? Gã có súng đấy à?”
Thế là chiếc túi đựng đồ ăn thừa của cô bị vứt lên vỉa hè, khẩu Glock đã nằm trong tay và Frank bị đẩy một cách thô bạo ra sau một thùng rác lớn. Cô lao lên trước, kêu gọi người qua đường, “Nằm xuống, nằm xuống, cảnh sát đây!” Rồi sự việc tồi tệ hơn. Cô đấu súng qua lại vài vòng với kẻ thủ ác ngốc nghếch. Hắn quả là có trí xét đoán tồi tệ khi tấn công vào một cửa hàng bán buôn đèn (biển gắn trên cửa sổ còn ghi, Chỉ chấp nhận thẻ tín dụng) và lại còn chĩa súng vào cô. Quy định của NYPD ghi rằng nếu một cảnh sát phải bắn, anh ta hay cô ta nên bắn gục đối phương, nhưng Sachs chưa chuẩn bị kịp để đưa ra một quyết định sinh tử vào tình huống đó. Cô bắn một viên đạn vào bàn tay hắn, tước vũ khí và mọi nguy cơ có thể xảy ra. Một phát súng dễ dàng với cô và phần việc giấy tờ đơn giản gọn nhẹ hơn nhiều so với một vụ bắn chết người. Frank đã đưa cô ra tàu điện ngầm trong lúc buôn chuyện điên cuồng và không bao giờ mời cô đi chơi lần nữa.
Giờ cô lại rẽ vào đúng con phố High Noon ấy – phố Bowery – và tìm đường trong mê cung đến khi thấy một hẻm tối. Những tòa nhà năm tầng đó, những căn hộ đã tồn tại được 150 năm, vẫn vươn lên khoảng trời hình chữ nhật màu xám, cho đến tận ngày nay. Các tòa nhà cao đều có cầu thang thoát hiểm chìa ra ngoài. Một tòa nhà có đường dây phơi đồ kiểu cũ, trên đó là những chiếc áo, quần và váy phất phơ như những con ma. Có lẽ là để làm ít dần, theo một cách rất nhỏ bé, dấu chân carbon64.
64 Chỉ số này càng lớn thì mức tác động xấu đến môi trường càng nhiều. Lượng khí CO2 này không nhất thiết là chúng ta trực tiếp thải vào môi trường. Mà chúng có thể được thải loại khi chúng ta sử dụng một thứ gì đó phải dùng năng lượng để có thể sản xuất. Chẳng hạn như là quần áo, đồ ăn.
Cả con phố gần như đều là nhà dân, nhưng cũng có vài cửa hàng bán lẻ ở tầng trệt. Một tiệm giặt khô. Một cửa hàng quần áo “vintage” (ý là đã qua sử dụng). Một hiệu sách cũ, chuyên thể loại huyền bí.
Và tiệm trang sức của Blaustein.
Cô đỗ nửa xe trên vỉa hè, ném biển NYPD lên bảng điều khiển và bước ra ngoài. Không khí mát lạnh giữ mọi người ở lại trong nhà và việc thiếu vắng hoạt động trên phố khiến khách tham quan cũng đi nơi khác. Vỉa hè không có người qua lại.
Cô đi đến cửa trước. Có một tấm biển Đóng cửa trên cửa ra vào, nhưng Edward Ackroy đã bảo cô là Abe Blaustein đang chờ cô đến. Cô nhìn ghé vào trong. Phòng trưng bày trống vắng và tối dù có đầy các hộp bày hàng. Nhưng có ánh đèn ở phía sau và cô trông thấy vài chuyển động ở đó. Một người đàn ông mặc bộ vest đen bụi bặm, đội mũ yarmulke65 nhìn lên và vẫy tay gọi cô vào.
65 Loại mũ che đỉnh đầu của người Do Thái.
Cánh cửa không khóa và cô đẩy vào trong.
Sachs đi chưa được một mét. Cô vấp phải thứ gì đó không nhìn rõ và ngã bổ nhào, dập mạnh xuống sàn nhà gỗ sồi cũ với một tiếng rên đau đớn.
Ngay khi cô kinh ngạc phát hiện ra một sợi dây thép dày được mắc ở tầm cổ chân thì gã đàn ông đã lao tới và nện lên lưng cô, đầu gối hắn đạp hết không khí ra khỏi phổi cô, làm cô buồn nôn. Cơn đau nuốt trọn lấy cô và cô hét lên. Chiếc mũ yarmulke đã bay mất còn hắn thì đang đội mặt nạ trượt tuyết quen thuộc.
Lúc cô với tay lấy vũ khí, hắn đã lôi nó ra khỏi bao súng của cô và nhét vào túi, cùng với điện thoại của cô. Hai bàn tay hắn đều đi găng vải. Rồi hắn chụp chính còng tay của cô lên hai cổ tay cô, đã bị vặn ra sau. Hắn còn nện một cú vào phần dưới lưng cô một cách không cần thiết. Cô kêu lên khi cơn đau mới tỏa khắp cơ thể, giống hệt như cơn đau từ cú ngã xuống tấm ván ở công trường.
Gã đàn ông dừng lại vì bị lên cơn ho. Cô cảm thấy hơi thở và nước bọt của hắn bắn vào cổ mình. Mùi rượu, tỏi và quá nhiều nước hoa cạo râu.
Cô cảm nhận được kẻ tấn công đang cúi xuống. Cô căng người, chờ đợi cú đấm một lần nữa. Nhưng không, việc này rất lạ. Hắn chỉ xoa ngón tay thứ ba trên bàn tay trái của cô, cứ như đang nghiên cứu chiếc nhẫn cưới hay nhẫn đính hôn của cô vậy.
Cô định nói, “Có người biết tôi ở đây. Đây là một ý rất tồi…”
“Suỵt, kuritsa bé nhỏ,” trọng âm Nga vang lên. “Suỵt.”
Lúc đó cô nửa bị bê, nửa bị kéo vào trong căn phòng phía sau cửa hàng. Hắn thả mạnh cô lên sàn văn phòng lót thảm, ngay bên cạnh thi thể bất động, nhợt nhạt của một người đàn ông, chắc chắn là Abraham Blaustein, ông chủ. Từ trong túi quần, người Nga lôi ra một con dao rọc giấy và dùng ngón cái đẩy lưỡi dao bóng loáng trồi lên.
Và rồi, cô nhớ lại điều Lincoln Rhyme vừa nói. Anh sẽ không bao giờ phạm sai lầm đó nữa… Những lời cuối cùng anh sẽ nói với cô.