Amelia Sachs quay lại dinh thự của Rhyme cùng vài thứ. Đầu tiên là bộ sưu tập vật chứng ở khách sạn của Vladimir Rostov tại bãi biển Brighton và tại cửa hàng của người bán lẻ trang sức. Tại đó, suýt chút nữa cô đã mất một ngón tay dưới lưỡi dao của tên điên người Nga.
Thứ hai là viên thanh tra của ban quản lý khai khoáng New York.
Rhyme liếc nhìn người đàn ông từng nói chuyện cùng họ trước đây, Don McEllis, nhưng không mấy quan tâm và tập trung vào những thùng vật chứng mà Sachs đang đẩy vào. Cô chú ý ánh mắt anh và nói, “Không dễ ăn đâu, Rhyme.”
Ấy là nhắc tới nhiệm vụ cấp bách của họ: tìm xem những quả bom ga tiếp theo đặt ở đâu.
“Em hi vọng McEllis giúp được.”
Anh ta gầy gò, nhìn có vẻ đứng đắn - thực ra từ “lạc mốt” hiện ra trong đầu anh mới đúng. Sachs đã giải thích anh ta có mặt ở đây là để xem qua các bản đồ và chi tiết về những vụ hoả hoạn trước để xem có thể khoanh vùng cuộc tìm kiếm thiết bị nổ được không.
Sachs nói, “Tôi nghĩ hắn cài đặt chúng gần các đường ống bị hỏng trong khu vực, nếu hắn muốn vụ động đất trông có vẻ thật. Nếu vậy, có lẽ Don có thể chỉ ra chúng được.”
Viên thanh tra nhún vai. Anh có vẻ không hào hứng lắm. Điện thoại của anh rung lên. “Toà thị chính. Trời ơi.” Anh nhận cuộc gọi và bước sang một bên.
McEllis yêu cầu được dùng máy tính để tải vài tấm bản đồ địa chất của khu vực. Cooper chỉ cho anh ta một cái. Anh ta cũng muốn biết các quả bom trước đấy đã được đặt ở đâu, và Sachs đẩy anh ta về phía tấm bảng trắng có gắn một bản đồ thành phố. Các vụ cháy được đánh dấu x đỏ và chúng tạo thành một hình ê-líp không liền mạch quanh một điểm trung tâm: công trường địa nhiệt gần Cadman Plaza. McEllis mở ra một biểu đồ địa chất của khu vực và bắt đầu mải mê nghiên cứu.
Cooper và Sachs đều đang mặc đồ bảo hộ và đeo mặt nạ để bắt đầu làm việc với các vật chứng đã thu được tại cửa hàng trang sức của Blaustein và khách sạn của Rostov trên bãi biển Brighton.
Rhyme cũng có vài thông tin. Sau khi Sachs gửi cho anh tên tuổi của nghi phạm, anh đã liên lạc lại với Daryl Mulbry của AIS, yêu cầu chi tiết về tên giết người. Ông ta đã gửi tới một bản báo cáo tổng hợp những thứ tìm được trong khoảng thời gian hạn chế đó. Vladimir Ivanovich Rostov. Quá khứ của người đàn ông Nga, bốn mươi bốn tuổi, là cựu quân nhân rồi sang làm việc cho FSB69 - một trong những đơn vị kế thừa của KGB70 - rồi trong mười năm vừa qua hắn là “cố vấn” cho những khách hàng là các tổ chức lớn gần như thuộc về chính phủ Nga, chẳng hạn Gazprom, một công ty dầu và khí ga, Nizhy Novgorod Shipping, chuyên sản xuất các giàn khoan dầu và tàu chở dầu và – đáng kể nhất – Dozprom, công ty khai thác kim cương lớn nhất nước Nga.
69 FSB là viết tắt của ‘Federalnaya Sluzhba Bezopasnosti’ – Tổng cục An ninh Liên bang của Liên bang Nga
70 KGB là viết tắt của ‘Komitet Gosudarstvennoi Bezopasnosti’ - Ủy ban An ninh Quốc gia Xô Viết
Mulbry đã biết được Rostov từng làm việc ở mỏ Mir, ở Siberia, từ tuổi mười hai đến tận hai mươi. “Anh chàng này hơi điên, từ những gì chúng tôi tìm được. Có tin đồn hắn ta đã giết chính ông chú mình, trong khi ông ta ở cùng một đường hầm khai mỏ với hắn. Đầu bị đá đập vỡ, nhưng ở đó lại không có vụ sạt lở nào. Cảnh sát thường lờ đi khi có việc liên quan đến công ty to nhất trong khu vực đó. Cả dì của hắn cũng chết không lâu sau đó. Rõ ràng là một đêm nọ bà ta bị kẹt trên mái nhà, cửa bị khoá bên ngoài. Không ai biết được bà ta làm gì ở đó. Bà ta chỉ mặc có một bộ áo ngủ mỏng tang và không mang giày. Hôm đó là vào tháng Mười Hai. Nhiệt độ bên ngoài là âm hai mươi. Các nhà chức trách cũng mắt nhắm mắt mở với cả vụ đó. Đã có vài khiếu nại là bà ta ne podkhodit, không đứng đắn với vài thanh niên trong khu nhà.”
Tiểu sử thú vị đấy, Rhyme nghĩ.
Hầm mỏ. Chà, điều đó giải thích nỗi ám ảnh với kim cương… và mối quan tâm của Rostov trong việc làm giả các vụ động đất ở công trường địa nhiệt.
Điệp viên còn nói thêm rằng Rostov bị các chính phủ Đức, Pháp, Thuỵ Điển, Cộng hoà Séc và Đài Loan từ chối cho nhập cảnh, vì bị nghi đã tấn công, tra tấn và thực hiện các hành vi kinh doanh bất hợp pháp, cũng như nhiều tội tài chính khác. Các nhân chứng không đứng ra tố cáo, nên hắn chưa bao giờ bị đưa ra toà; hắn chỉ bị trục xuất và thông báo đừng bao giờ trở lại. Ở Kraków, nhà chức trách Ba Lan đã giam giữ hắn sau cáo buộc tấn công tình dục một phụ nữ và đánh bạn trai cô ta. Hắn đã được lặng lẽ thả ra do vài can thiệp từ Moscow.
Ở cửa hàng trang sức, cô đã tìm được hộ chiếu Nga thật của hắn – với cái tên Rostov – cộng với một hộ chiếu giả tên Alexander Petrovich, một khẩu Smith & Wesson .38, những viên đạn .38 và 9mm Finocchi rời - loại sau là cho khẩu Glock - mặt nạ trượt tuyết, găng tay vải, con dao rọc giấy còn vấy máu, thuốc lá và bật lửa, tiền mặt (đô-la, rúp và euro). Không có chìa khoá chiếc Toyota, mặc dù không có gì đảm bảo rằng chiếc xe đỏ bên ngoài nhà Adeela từng thuộc về Rostov. Hắn cũng không mang theo điện thoại di động.
Hắn không cầm theo chìa khoá phòng nhưng một cuộc kiểm tra nhanh với các khách sạn và nhà nghỉ trong khu vực đã phát hiện ra một Alexander Petrovitch đang ở tại Nhà trọ Beach View Residence ở bãi biển Brighton, Brooklyn. Sau đó, Sachs đã khám phòng thật kỹ lưỡng. Nhưng cô không tìm được gì nhiều. Thêm những băng đạn .38, thức ăn nhanh, mấy chai Jack Daniels, các hộ chiếu thật của những danh tính khác mà Mulbry đã biết. Không có máy tính hay điện thoại, chìa khoá xe lẫn manh mối gì liên quan đến lehabahs, các thiết bị IED ở đường ống ga, hay nơi chúng được cài đặt.
Và cũng không có cả những viên thô trị giá năm triệu đô-la nữa.
Những viên đá ở đâu? Đồ điện tử của Rostov đâu? Cô đoán hắn giữ tất cả, bao gồm cả chìa khoá khách sạn, bên trong chiếc Toyota, phòng khi hắn cần tẩu thoát nhanh chóng. Chìa khoá xe chắc chắn được giấu bên trong khoang bánh xe. Sau bộ phim Breaking Bad, một seri truyền hình dài tập, có cả đống tội phạm đã làm cách này.
Việc thiếu đầu mối đã thúc đẩy cô kêu gọi sự giúp đỡ từ nhà địa chất học, cô giải thích với Rhyme như vậy. Đó là một bước đi có phần tuyệt vọng, cô giải thích. Mặc dù theo quan điểm của Rhyme việc ấy cũng hợp lý.
Sachs viết lại các phát hiện ít ỏi trong vật chứng lên tấm bảng trắng và lùi lại, chống tay lên hông, lại dùng ngón trỏ cào ngón cái. Nhìn đăm đăm, đăm đăm.
Rhyme cũng đang làm việc tương tự. “Còn gì nữa không?” anh gọi sang Cooper.
“Chỉ còn kiểm tra những dấu vết cuối cùng từ phòng khách sạn thôi. Một phút nữa là có.”
Nhưng nó sẽ cho thấy điều gì? Có thể là vài chất sót lại trên dấu giày từ nơi hắn đặt quả bom. Nhưng trông chờ như vậy thì xa xôi quá.
Anh nhăn mặt thất vọng, rồi liếc sang McEllis. “Có gì chưa, Don?”
Anh kĩ sư vẫn đang gò lưng trên bàn, nghiên cứu cả bản đồ địa chất trên mạng lẫn bản cứng đã đánh dấu các vụ hoả hoạn trước đó. Anh ta nói, “Tôi nghĩ là có. Dường như hắn đã đặt bom dọc theo đường nứt Canarsie. Thấy không? Nó chạy xuyên qua trung tâm Brooklyn, gần Cadman Plaza, rồi vào trong cảng. Nó dài khoảng hơn ba cây số thôi nhưng phần lớn bị chìm dưới nước. Chỉ có khoảng tám trăm mét trên bờ.” McEllis chỉ một trục đi xuyên qua khu vực đô thị đông đúc.
Quỷ thật, Rhyme nghĩ, có quá nhiều tầng hầm để lùng sục. “Chúng ta phải khoanh vùng nhỏ hơn nữa.”
Mel Cooper gọi, “Đã có ba manh mối cuối cùng. Không có gì xác định được vị trí cụ thể của Rostov cả. Tàn thuốc lá, sốt cà chua, mỡ bò, đất cát tương thích với địa chất bãi biển Brighton. Thêm kimberlite nữa.”
Không ngước lên khỏi bản đồ, McEllis hỏi, “Kimberlite à?” Rhyme nói, “Đúng vậy. Nghi phạm của chúng ta đã dính phải một ít cái đó ở hiện trường giết người đầu tiên. Nó có trên quần áo và giày của hắn. Hắn đã bỏ lại một ít ở vài hiện trường.”
“Vậy ý anh là serpentinite. Không phải kimberlite. Chúng cùng một họ đá.”
“Không, đó là kimberlite. Chúng có các tinh thể kim cương lẫn bên trong,” Cooper nói và nhìn lên. “Tôi nghĩ điều đó khiến một viên serpentinite biến thành kimberlite.”
“Đúng thế,” McEllis thì thầm. “Nhưng… tôi có thể xem một mẫu vật được không?”
Cooper nhìn sang Rhyme, anh gật đầu.
Kĩ thuật viên chuẩn bị một mẫu vật và đặt nó lên bệ kính hiển vi.
McEllis ngồi lên một cái ghế, gập người về phía trước và bắt đầu điều chỉnh đèn bên trên cái bệ. Anh ta tập trung. Ngồi lùi lại, nhìn đi chỗ khác. Rồi quay lại với ống kính. Anh ta dùng một cây kim để chọc qua lớp bụi và đá. Mắt anh ta vẫn còn đặt trên ống kính viền cao su nhưng hai vai lại nhô lên và gót chân kiễng nhẹ. Ngôn ngữ cơ thể cho thấy rằng anh ta đang nhìn vào một thứ gì đấy khác thường. Anh ta lùi lại và khẽ cười.
“Sao thế?” Sellitto hỏi.
“Chà, nếu các anh tìm thấy những viên đá này ở thành phố New York thì các anh vừa mới viết lại lịch sử địa chất đấy.”