“Kimberlite,” Don McEllis đang nói với những người bên trong phòng khách. “Các bạn có thể gọi nó là thang máy mang kim cương lên bề mặt trái đất từ lớp manti - phần nằm ngay bên dưới lớp vỏ. Nơi kim cương được hình thành.”
Điều tra viên quay lại với kính hiển vi, cứ như anh ta không cưỡng lại được, và quan sát các khoáng chất trên bệ của dụng cụ lần nữa. Anh ta tiếp tục đổi các mẫu vật. “Hừm. Chà.” McEllis ngồi lại lần nữa và xoay chiếc ghế để đối mặt với những người khác. “Kimberlite giàu kim cương – như mẫu này – chưa từng được tìm thấy ở bất kì đâu trong tiểu bang New York. Địa chất khu vực này không thích hợp để hình thành kim cương. New York là khu vực ‘rìa thụ động71’. Chúng ta có những thềm kiến tạo ổn định.”
71 Rìa lục địa hình thành do sự rạn nứt của lục địa và sự tách dãn của đáy đại dương. Về mặt kiến tạo thì rìa thụ động tương đối yên tĩnh.
“Không thể tìm thấy kimberlite có kim cương ở đây à?” Rhyme hỏi.
Người đàn ông nhún vai. “Đúng hơn phải nói là rất ít khả năng. Có khoảng sáu ngàn mỏ kimberlite trên thế giới nhưng chỉ có chín trăm mỏ là chứa kim cương… và vài chục mỏ đủ viên thô để việc khai thác đem lại lợi nhuận. Và ở Mỹ không có mỏ nào. Ồ, nhiều năm trước cũng có một vài nơi sản xuất nhỏ - ở miền Nam. Giờ chúng đều là các mỏ mở cho du khách. Anh trả hai mươi đô hoặc khoảng đó, để tìm kim cương với lũ trẻ. Còn ở Canada, mãi đến gần đây các nhà khai mỏ mới tìm được kimberlite hay kim cương, và giờ họ đã là một trong những nhà sản xuất chính. Vì thế, tôi đoán chuyện đó cũng có thể xảy ra ở đây.”
Điều tra viên lại nhìn qua kính hiển vi lần nữa. “Các anh vừa bảo tìm được cái này ở đâu ấy nhỉ?”
Rhyme trả lời, “Vài nơi. Ở cửa hàng nơi nghệ nhân kim cương Patel bị giết. Vimal - thợ học việc của ông ta – có mang theo một cái túi đựng nó. Chúng tôi đã không nghĩ gì nhiều về nó. Chúng tôi tưởng cậu ta sẽ cắt nó thành một món trang sức. Hoặc là tạc tượng. Đó là sở thích của cậu ta.”
“Anh không thể tạc kimberlite như vậy được. Kim cương làm cho việc đó thành bất khả thi. Quá cứng.”
Rhyme cau mày, “Chỉ là giả định thôi.” “Còn các nguồn khác?” McEllis hỏi.
Sachs nói, “Có một chút dấu vết ở nhà Saul Weintraub – nhân chứng đã bị giết. Có thể nó rơi ra từ giày của kẻ sát nhân hoặc quần áo.” Cô nhún vai. “Đó là chúng tôi nghĩ vậy. Tôi đoán nó cũng có thể rơi ra từ chính Weintraub.
Giả định…
Rhyme hỏi, “Giả sử có vài mẩu đá lớn loại này. Chúng có đáng giá lắm không? Có đáng để giết người vì nó không?”
“Xác suất tìm được kim cương đáng tiền trong những mẫu kimberlite nhỏ tương đương với xác suất anh trúng độc đắc vậy.” Rồi anh ta cau mày. “Nhưng…”
“Sao?” Sachs hỏi.
“Không ai lại đi giết người vì một viên đá như thế này cả. Nhưng họ có thể làm việc đó vì thứ mà nó đại diện.”
“Ý anh là gì?”
“Nếu mẫu vật này tới từ một mạch lớn thì sao? Tôi có thể thấy người ta giết người để chiếm quyền khai mỏ hoặc để phá hủy nguồn cung, đảm bảo không ai tìm ra nó.”
“Phá hủy ư?” Sachs hỏi.
McEllis nói, “Trong lịch sử có hai ngành công nghiệp mà những công ty trong đó sẽ làm bất cứ điều gì để phá hoại các phát hiện tiềm năng, hòng giữ giá cao. Dầu mỏ và kim cương. Và khi tôi nói bất cứ điều gì, ý tôi là nghĩa đen ấy. Giết người, phá hoại, đe doạ. Những điều này sẽ không xảy ra với những viên kim cương sản xuất hàng loạt - những loại rẻ tiền, dành để xay tán, mài giũa, cơ khí nhưng sẽ xảy ra với những viên đá quý, giống như thế này.” Anh hất cằm về phía kính hiển vi. “Ồ phải. Chắc chắn rồi.”
Sellitto nói, “Linc, anh có nghĩ một công ty kim cương nào đó đã nghe nói đến mạch đá này và cử nghi phạm tới đây để giết tất cả những ai biết về nó không.”
Rhyme gật đầu. “Northeast Geo, họ đã đào nó lên nên Rostov làm giả các vụ động đất để thành phố cấm việc khoan khai thác.”
McEllis, “Chuyện này cũng không hiếm thấy như anh nghĩ đâu. Thậm chí anh còn có thể thuê những công ty ‘an ninh’ để đảm bảo các mỏ tiềm năng không bao giờ được khai quật hoặc đóng cửa những mỏ đang có sẵn. Những con đập bị nổ tung, quan chức chính phủ ăn hối lộ để quốc hữu hoá mỏ và phá huỷ chúng. Người Nga đặc biệt có tiếng trong việc này.”
Rhyme nói, “Rostov trước đây đã làm việc cho Dobprom, công ty độc quyền khai thác kim cương của Nga.”
“Ồ, chắc chắn họ là một trong những tay chơi chuyên phá hoại.
Nhiều nhà sản xuất khác cũng chơi không đẹp như vậy lắm.”
Sachs nói, “Weintraub. Ông ta là người đánh giá. Có lẽ ông ta không bị giết vì là nhân chứng. Có lẽ ông bị giết vì đã phân tích kimberlite và phát hiện ra kim cương.”
Sellitto lẩm bẩm, “Chúng ta đã không nghĩ kỹ. Ở chỗ Patel: Weintraub rời đi trước khi nghi phạm đến. Ông ta thì giúp được gì với tư cách là nhân chứng? Không nhiều. Nghi phạm của chúng ta muốn ông ta chết vì ông ta biết về kimberlite.”
Sachs nói, “Tội ác được thực hiện ở chỗ Patel không phải là để ăn cắp viên thô. Chúng định giết ông ấy và tất cả những người biết về phát hiện này. Đó là lí do hắn tra tấn Patel – và dùng súng đánh Weintraub. Hắn muốn biết họ có giữ thêm kimberlite nào khác hoặc ai khác biết về nó không.”
Rhyme cúi đầu xuống tấm đỡ trên ghế của mình, mắt nhắm nghiền. Rồi anh mở mắt. “Ai đó đã tìm được một mẫu vật ở công trường khoan, mang nó đến chỗ Jatin Patel và ông ta thuê Weintraub phân tích nó. Tin tức tới tai Dobprom. Họ cử Rostov tới ngăn chặn giàn khoan và giết bất kì ai đã biết về nó.”
McEllis nói, “Dobprom sẽ không muốn có một hoạt động khai thác lớn diễn ra ở Mỹ đâu. Quỷ thật, không có một công ty mỏ nước ngoài nào muốn. Nó sẽ làm giảm bớt một nửa doanh thu của họ.”
Mel Cooper hỏi, “Nhưng nguy cơ ảnh hưởng tới các công ty đó có thật sự tồn tại không? Ý tôi là, việc khai thác kim cương ở Brooklyn thực tế đến đâu chứ?”
McEllis trả lời, “Ồ, việc đó không khó khăn gì đâu. Thực ra là dễ hơn nhiều so với đào đường tàu điện ngầm hoặc hầm dẫn nước, mà mấy việc đó thì thành phố vẫn làm suốt. Sẽ có vài rào cản pháp lý nhưng không phải là không vượt qua được. Cơ quan tôi sẽ phải chấp thuận các kế hoạch và có vài loại giấy tờ chính thức nữa cần phải xin được. Chẳng hạn, chúng tôi sẽ không chấp nhận việc khai thác mỏ lộ thiên. Nhưng anh có thể dễ dàng thiết lập một hệ thống đường hầm hẹp tự động hoá. Từ quan điểm kỹ thuật, việc ấy dễ như ăn kẹo.”
Nhưng, Rhyme nghĩ, nếu mục đích là ngăn chặn việc khai thác, điều đó có nghĩa là…
Sellitto là người thốt ra lời những gì anh định nói, “Vậy Ezekiel Shapiro, ông ta không tự sát. Rostov đã giết ông ta và dàn dựng mọi chuyện như vậy. Bắt cóc, tra tấn để lấy mật mã Facebook của ông ta, để lại bức thư tuyệt mệnh.”
Mặt Rhyme u ám khi anh nói, “Hắn cần một kẻ để đổ tội vì chúng ta đã phát hiện ra các vụ động đất là giả và hoả hoạn là do thiết bị kích nổ ống ga.”
Rồi anh chợt nghĩ ra. Như một cú sốc điện. “Đồng rúp,” anh thì thầm.
“Chết tiệt.” Sachs đã hiểu ý anh. “Rostov sẽ không để lại đồng rúp vào chỗ của Shapiro. Chúng là bằng chứng tố cáo hắn. Kẻ nào khác đã đột nhập vào căn hộ của Shapiro, giết ông ta - một kẻ muốn giả như chính Rostov đứng sau vụ này. Chắc chắn, người Nga có dính dáng: Hắn đã tất công cặp đôi ở Gravesend và cô gái ở cửa hàng váy cưới. Và Kirtan – bạn Vimal nữa. Tấn công cả tôi. Nhưng hắn không phải là kẻ chủ mưu.”
Và kết luận là không thể tránh khỏi.
Bằng một giọng lặng lẽ, mắt vẫn nhìn vào Rhyme, cô nói, “Và chủ mưu chính là kẻ đã bắn hắn ta.”
Rhyme biết điều đó đúng. “Edward Ackroyd.”
“Nhưng,” Sellitto nói, “chúng ta đã kiểm tra lí lịch của ông ta. Và ông ta biết tất tần tật về Patel. Về những viên thô đã bị đánh cắp.”
“Kim cương thô nào kia?” Rhyme hỏi bằng giọng giễu cợt.
“Chúng ta có bao giờ tìm được nó không? Đã bao giờ trông thấy một chút dấu vết nào của nó chưa?”
Tất nhiên là chưa.
“Bởi vì nó chưa bao giờ tồn tại,” Sachs nói Rhyme gật đầu. “Hắn đã giả mạo những phong bì đựng chúng ở chỗ Patel. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến! Sao phải bỏ lại nó! Kẻ cắp đáng lẽ chỉ cần vơ mấy viên đá trong phong bì mà. Hắn làm vậy là để len vào cuộc điều tra… để tìm ra ai là VL. Và chúng ta đã để hắn vào hẳn chuồng gà. Chết tiệt.”
“Sao lại thế được, Linc?” Sellitto hỏi. “Amelia đã gọi đến Mỏ Grace-Cabot ở Nam Phi mà.”
Sachs thở hắt ra. Mặt cô đanh lại và thốt lên giận dữ. “Không, tôi đã không gọi. Tôi gọi vào số trên phong bì chứa những viên thô. Tôi đã không tìm số của công ty trên mạng. Nó có phải công ty thật không?”
“Chà…” Rhyme sốt ruột liếc sang Pulaski. Anh ta gật đầu và đi tìm hoá đơn của Grace-Cabot, rồi lên Google.
Anh gật gù. “Nó là một mỏ kim cương thật. Nhưng số văn phòng không phải là số trên hoá đơn.” Anh ta thử gọi vào. “Nó chỉ nói là hãy để lại lời nhắn.”
“Llewellyn Croft?” Rhyme hỏi.
Pulaski lướt một dọc trang web. “Ông ta đúng là giám đốc điều hành Grace-Cabot.”
“Nếu cậu tìm được ông ta thì Ackroyd – ý tôi là nghi phạm thực sự - cũng tìm được.”
Sachs nói tiếp bằng giọng thì thầm, ghê tởm, “Kẻ chúng ta đã nói chuyện cùng, dưới danh nghĩa là Croft, chắc là đồng phạm của Ackroyd. Có thể là một trong những công ty an ninh mà Don đã kể cho chúng ta. Hắn đã đưa chúng ta tới Milbank Assurance. Vẫn thế, một công ty thật nhưng hắn làm giả mối quan hệ với họ.” Rhyme quát, “Tôi muốn tìm ra hắn ngay bây giờ.”
Các cuộc gọi tiếp theo đến Grace-Cabot và Milbank Assurance đã xác nhận trò lừa đảo như họ nghĩ. Llewellyn Croft là giám đốc điều hành của công ty Grace-Cabot nhưng ông ta đảm bảo với họ là chưa từng gửi bất kì viên thô nào cho Patel cắt. Bản thân ông ta cũng chưa từng đi Mỹ trong mấy năm qua. Và Milbank cũng không phải là công ty bảo hiểm của họ.
Theo yêu cầu của Rhyme, đặc vụ FBI Fred Dellray đã gọi cho người bên Bộ Ngoại giao. Họ xác nhận là theo Cục Hải quan và Biên phòng, Croft không đến Mỹ gần đây. Các cuộc gọi đến Milbank cũng xác nhận công ty bảo hiểm này không dính dáng gì đến Grace-Cabot. Đúng là công ty có một thám tử cao cấp tên là Edward Ackroyd, và ông ta cũng đúng là cựu cảnh sát của Scotland Yard. Nhưng trong tuần vừa qua, ông ta ở London, ngay tại trụ sở công ty.
Với khuôn mặt mang vẻ nhạo báng, Lon Sellitto nói, “Được rồi, giải thích cho người chậm hiểu cái: Tôi lạc lối mất rồi. Có chuyện quái quỷ gì thế này, Linc?”
“Một công ty khai thác kim cương nào đấy biết về việc phát hiện kimberlite và lo ngại đối thủ cạnh tranh sẽ bắt đầu sản xuất. Ackroyd được thuê để dàn dựng các vụ động đất và ngăn chặn việc khai thác địa nhiệt, cũng như tìm ra ai biết về kimberlite này để giết luôn cả họ: Patel, Weintraub và Vimal. Hắn đã giết hai người đầu tiên còn thằng bé trốn thoát được. Thế nên, Ackroyd đã tuyên bố rằng viên thô của khách hàng hắn bị đánh cắp, để len lỏi vào cuộc điều tra của chúng ta hòng tìm ra Vimal ở đâu.”
Sellitto hỏi, “Rostov xuất hiện ở đoạn nào? Chúng làm việc cùng nhau, cho người Nga à?”
Rhyme nói chua chát, “Chúng ta thường không bắn vào đầu cộng sự của mình.”
Sachs nói, “Không. Hai công ty khác nhau cùng nghe nói về sự việc kimberlite này. Một cử Ackroyd tới đây và Dobprom cử Rostov. Ackroyd đã cài cắm để Rostov phải nhận hết tội, nếu sự việc bất thành.”
Rhyme lẩm bẩm, “Đáng lẽ tôi phải nhìn ra! Sợi polyester màu đen được tìm thấy ở hiện trường vụ Patel và Weintraub. Chỉ có sợi cotton đen ở các nơi khác. Điều đó có nghĩa là có hai loại mặt nạ trượt tuyết khác nhau. Hai vũ khí khác nhau. Glock và Smittie. Nhìn này.” Anh chỉ vào biểu đồ vật chứng gần đây. “Rostov mang theo mấy băng đạn chín mili trên người ở cửa hàng Blaustein nhưng Ackroyd có thể đã tuồn nó vào túi áo hắn.”
“Rhyme!” Sachs có vẻ thảng thốt.
Đột nhiên anh hiểu ra. “Trời đất. Có một lí do khác để giết Rostov.”
“Tại sao?” Sellitto hỏi.
Sachs nói, “Để giả như Nghi phạm 47 đã chết – và Vimal an toàn. Để chúng ta thả cậu ấy ra khỏi nơi bảo vệ nhân chứng.”
“Cậu ta ra chưa?” trung uý thanh tra hỏi.
Sachs nhăn mặt. “Rồi. Tôi đã gọi cho đội bảo vệ ở Staten lsland và họ đang lái xe đưa cậu ta đến bến phà. Và Vimal không có điện thoại nữa. Không có cách nào liên lạc với cậu ấy. Tôi sẽ gọi cho gia đình cậu.” Cô lôi điện thoại di động ra.
Rhyme nói với Sellitto, “Và gọi luôn đồn cảnh sát Brooklyn nơi đang tạm giữ Ackroyd. Bảo họ giam hắn luôn.”
“Tôi làm đây.” Thanh tra gọi một cuộc. Anh nói chuyện nhanh rồi cúp máy với một cái nhăn mặt. “Ackroyd, hay tên quỷ quái gì ấy, đã được thả luôn tại đồn. Điện thoại hắn tắt rồi. Và địa chỉ hắn đưa cho bên thẩm vấn là giả. Không ai biết hắn đang ở đâu.”