Khi đã biết đến cái tên Andrew Krueger, họ có thể thu thập được hồ sơ chính xác về hắn.
Trong khi Sachs lục soát phòng trọ của kẻ đã chết ở Brooklyn Heights, Rhyme, Fred Dellray từ FBI, cảnh sát Nam Phi và Cục Tình báo Thay thế luôn giúp ích đã bắt đầu lên thông tin chi tiết.
Nơi ở của kẻ sát nhân là một căn hộ ở Cape Town, không xa biển, ở khu vực Victoria & Alfred Waterfront. Theo cảnh sát Nam Phi, đó là một khu dân cư khá cao cấp. Người đàn ông này không có tiền án tiền sự, nhưng từ sau khi xuất ngũ hắn đã liên kết với vài doanh nhân “tai tiếng” trong ngành kim cương. Mặc dù cha hắn từng là một người lớn tiếng ủng hộ chủ nghĩa a-pác-thai, bản thân Krueger không mang các định kiến này, có thể vì hắn ghê tởm chúng hoặc nhiều khả năng hơn là chúng không có lợi về mặt kinh tế. Hắn sẽ làm việc cho bất kỳ ai trong ngành có thể trả tiền cho hắn, bao gồm vài doanh nhân “kim cương đen” nguy hiểm hơn, có gốc gác từ những làng quê nghèo đói nhưng giờ bọn họ đã thành dân giàu có. Hồi còn trong quân đội Krueger làm bên bộ phận phá dỡ. Khi chưa nhập ngũ, hồi còn trẻ hơn, hắn cũng làm khai mỏ và đã học kỹ thuật, điều này giải thích cách hắn có thể đặt chất nổ để nhái lại những vụ động đất. Tất nhiên chính những mối quan hệ bên quân đội đã cho phép hắn tiếp cận với cả C4 lẫn các quả bom ga.
Công ty của Krueger là AK Associates. Hắn là giám đốc điều hành; cộng sự của hắn là một cựu đốc công ở mỏ, Terrance DeVoer. Công ty này chuyên về các “hoạt động an ninh” cho ngành đá quý, kim loại và các vật liệu quý.
Một thanh tra của cảnh sát Nam Phi đã nói với họ, mô tả mơ hồ này dịch ra là “công ty đánh thuê”. Các nỗ lực thẩm vấn DeVoer đã không thành công; hắn cùng vợ đã biến mất.
Khi còn ở cùng với Rhyme, Sachs và những người khác, Krueger trong vai Ackroyd đã tỏ ra rất hiểu biết về thế giới kim cương và điều này không hề là giả. Một cuộc khám nhà của hắn ở Cape Town do cảnh sát Nam Phi tiến hành đã phát hiện ra một nỗi ám ảnh thực sự với đá quý: Hàng trăm cuốn sách về đề tài này, các bức ảnh và tài liệu về kim cương, cả khía cạnh khoa học, tới văn hoá và nghệ thuật. Một thanh tra còn nói chính hắn từng làm thơ về đá quý.
“Vần điệu lủng cà lủng củng, tôi nói cho các anh nghe.”
Họ cũng tìm được những viên kim cương thật. Cả thô và thành phẩm. Trị giá gần hai triệu đô-la, một thanh tra khác nói. Người nữa lại thêm vào, một bộ sưu tập kỳ lạ nằm trên bàn cạnh giường của Krueger. Một ngọn đèn rọi từ bên dưới mặt kính trong, trên đó Krueger để một tá viên kim cương. Ánh sáng hắt những tia lấp lánh từ các viên đá lên trần nhà, như những chòm sao, rìa của mỗi viên kim cương đều chiếu toả cầu vồng.
Rhyme nhớ lại cái tên cho sự khúc xạ này là “lửa”.
Cuộc lục soát cũng cho biết tên của người thuê. Các giao dịch ngân hàng cho thấy có hai món tiền, mỗi món 250K đô được chuyển cho công ty của Krueger. Chúng xuất phát từ một tài khoản số ở Thành phố Guatemala. Hai giao dịch này được thực hiện chỉ trong vòng hai tuần qua. Nội dung chuyển khoản là “Trả trước 1” và “Trả trước 2.”
Cảnh sát cũng tìm được các tài liệu về một công ty tên là Nuevo Mundo Minería – Mỏ Tân Thế giới - một nhà sản xuất kim cương ở thành phố Guatemala.
Nhưng trong khi lục soát hay kiểm tra tất cả hồ sơ của cảnh sát, bao gồm Interpol và Europol, họ vẫn không tìm được thông tin tha thiết cần: địa điểm đặt quả bom ga IED cuối cùng.
Có lẽ vật chứng từ nhà trọ của Krueger sẽ có câu trả lời đó. Anh sắp sửa biết. Anh có thể nói điều này từ tiếng gầm động cơ của một chiếc xe thể thao và những tiếng kít của má phanh trên phố bên ngoài dinh thự.
Sachs đã điều tra hiện trường - những hai lần - ở khách sạn dài ngày của Krueger trong Brooklyn Heights.
Lincoln Rhyme và cô đang nghiên cứu các kết quả từ nỗ lực của cô. Mel Cooper cũng đang xử lý vài phát hiện khác. McEllis vẫn ở lại, chờ để giúp họ khoanh vùng các địa điểm khả dĩ có thể đặt bom, dựa trên kiến thức của anh ta về đường đứt gãy địa chất dài tám trăm mét.
Trong nhà trọ của Krueger có các biểu đồ của công trường địa nhiệt, ảnh chụp hoạt động khoan, bản đồ khu vực xung quanh công trường, các bài báo về chất nổ mà rung chấn của nó đã bị nhầm lẫn là động đất, các bức email từ những tài khoản không truy ra được kèm file đính kèm về hàm lượng kim cương trong các mẫu vật, lặp lại những gì mà Don McEllis đã kể cho họ. Krueger đã nghiên cứu Ezekiel Shapiro và cả hoạt động của nhóm Một Trái Đất nữa. Địa chỉ nhà hoạt động môi trường đã chết được ghi trong một tờ giấy ghi chú.
Sachs đã tìm được chiếc cặp táp khớp với thứ Krueger mang tới cửa hàng ông Patel. Nó có chứa một cái kính hiển vi nhỏ nhưng tỉ lệ phóng to lớn, vài công cụ và những mẩu kimberlite. Hắn đã mang theo nó tới cửa hàng Patel để phân tích viên đá, Rhyme cho là vậy. Nếu kimberlite được chứng minh là có hàm lượng kim cương lớn, hắn sẽ ăn cắp nó và tra tấn Patel để tìm thêm thông tin. Ở đây cũng có một thùng các tông có chứa dấu vết RDX, thành phần chính của C4, và một cái hộp khác dán nhãn ở bên cạnh: םיטטסומרת, tiếng Hebrew có nghĩa là “bộ điều nhiệt” - tức là thứ các thiết bị IED trên ống ga giả dạng.
Sachs dán các bức ảnh chụp căn phòng lên. Cô nói, “Một thứ có thật? Đó chính là tình yêu dành cho các câu đố ô chữ. Hắn có cả chục cuốn sách về ô chữ.”
Điều này nhắc Rhyme nhớ lại.
Anh liếc nhìn món quà - thiết bị ô chữ mật mã điện tử mà tên sát nhân đã cho Rhyme.
Edward Ackroy - kẻ mà anh đã nghĩ có thể trở thành bạn bè. Một từ năm chữ cái bắt đầu bằng J, nghĩa là “kẻ phản bội”. Rồi anh bắn gục luôn giây phút cường điệu đó.
Anh bảo Mel Cooper, “Xem bên trong có thiết bị phát sóng nào không.”
“A…”
“Xem hắn có nghe lén chúng ta không.”
“À.” Dùng một bộ dụng cụ máy tính nhỏ, Cooper lấy phần sau thiết bị ra. Anh ta nhìn một lượt và dùng gậy phát hiện bước sóng quét qua nó.
“Không có gì. Nó an toàn.”
Anh ta định lắp nó lại. Nhưng Rhyme nói khẽ, “Không, vứt nó đi.”
“Anh không muốn…”
“Ném nó đi.”
Cooper làm theo, Rhyme và Sachs quay lại với bằng chứng. Quả bom ga chết tiệt ở đâu nhỉ?
Không có bản đồ hay ghi chú nào gợi ý câu trả lời. Máy tính của Krueger đã bị khoá và được gửi tới chỗ Rodney Szarnek trong thành phố, cùng với hai chiếc điện thoại ẩn danh, một cái hắn mang theo người ở chỗ bãi rác thải ở Brooklyn - chiếc điện thoại đó chưa bị khoá và có một cuộc gọi đến Moscow. Các số được gọi sau khi Rostov đã chết, và Rhyme tin rằng chính Krueger đã làm vậy để giả vờ như kẻ giết Vimal là một đồng phạm bí mật của Rostov. Chuyện đó gần như không có thật - đặc biệt là khi Sachs còn tìm thấy thuốc lá Nga và đồng rúp trong túi Krueger, rõ ràng hắn có ý định ném nó xung quanh thi thể Vimal. Một màn dàn dựng.
Tuy là ít khả năng, nhưng cho đến khi Rodney xác nhận những cuộc gọi ấy được thực hiện từ cùng một chỗ để điện thoại của Krueger, Vimal vẫn phải ở lại trong một đồn cảnh sát địa phương để đảm bảo an toàn.
Sachs cũng tìm thấy chìa khoá của chiếc Toyota giờ đã nổi danh - mặc dù nó đang ở đâu thì chưa ai biết – và chìa khoá phòng của Rostov.
Mel Cooper nói, “Tôi tìm được vài điều về công ty khai mỏ ở Guatemala. Tân Thế giới. Cỡ bự với vài mỏ kim cương trên khắp Nam Mỹ, chủ yếu sản xuất loại công nghiệp. Không phải những người tử tế nhất Trái Đất. Họ đã bị các nhà hoạt động môi trường và các chính phủ buộc tội huỷ hoại rừng nhiệt đới do khai thác cạn kiệt, chặt phá rừng, những thứ đại loại như vậy. Họ trả tiền cho các chủ khai mỏ nhỏ, garimpeiros, để cướp bóc đất đai của người bản địa. Đã có những cuộc chiến - chiến đấu thật sự. Hàng chục thợ mỏ và người Anh-điêng đã bị giết.”
Rhyme gọi cho Fred Dellray ở FBI một lần nữa và hỏi liệu anh có thể nhờ người quen của mình bên Bộ Ngoại giao để đảm bảo an ninh, và liệu đại sứ quán Mỹ hoặc lãnh sự quán tại thành phố Guatemala có thể nói chuyện với các ông chủ của công ty khai mỏ này không.
Và liệu họ có chịu hợp tác không nữa, anh nghĩ một cách châm biếm.
“Hãy xem qua manh mối nào,” Rhyme nói.
Trong số những thứ Sachs tìm được có mật ong tươi, vài tấm nỉ mục nát, đất sét, những mảnh vụn của dây điện cũ, vài mẩu cánh côn trùng, có lẽ là từ chi Apis (ong - mật ong ở đây cũng củng cố thêm giả định này, mặc dù chúng có thể không liên quan). Và trên đôi ủng được tìm thấy trong nhà trọ, cô tìm thấy dấu vết của một loại đất nông nghiệp loại nhẹ khác thường, đá phiến có tính thấm hút và đất sét, một hỗn hợp chứa vụn rơm, cỏ khô – và phân hữu cơ.
“À.”
“Sao, Lincoln?”
Anh không trả lời câu hỏi của Cooper mà lên mạng và ra lệnh bằng giọng nói cho Google. “Hợp chất Rooflite.” Đôi khi bạn cần tới các dữ liệu chuyên ngành, đôi khi không cần.
Câu trả lời hiện ra chỉ trong một phần ngàn giây. “Đúng rồi!”
Sachs, Cooper và McEllis quay sang anh.
Rhyme nói, “Hơi võ đoán nhưng chúng ta không có nhiều thứ để mà lần theo. Tôi nghĩ hắn đã đặt một thiết bị, ít nhất là thế, ở phía bắc các toà nhà chính phủ trên Cadman Plaza. Ở Vinegar Hill.”
Đây là khu phố cổ của Brooklyn, gần kề khu Navy Yard cổ kính. Được đặt tên theo trận chiến ở Ireland năm 1798 giữa những người Ireland nổi dậy và quân lính Anh, khu dân cư này là một tập hợp kỳ lạ: những căn biệt thự cổ từ thời Victoria được bao quanh bằng các kiến trúc công nghiệp nghiêm trang, đường bệ.
“Sao anh biết?” Cooper hỏi.
Anh biết là vì, dù anh không thể lượn quanh các con phố như hồi còn đi lại được, Lincoln Rhyme vẫn nghiên cứu mọi khu đô thị, mọi khu dân cư, mọi toà nhà trong thành phố của mình. “Một người có thể trở thành nhà tội phạm học đích thực chỉ khi kiến thức của anh ta hay cô ta về địa phương, nơi tội ác diễn ra phải rất tốt,” anh đã viết điều này trong cuốn sách về tội phạm học của mình.
Câu trả lời cụ thể cho câu hỏi này là một hỗn hợp của cánh ong, mật ong, đất Rooflite, phân bón và nỉ. Anh tin rằng những vật liệu này tới từ Brooklyn Grange ở Navy Yard cổ kính. Nó là trang trại trên cao rộng nhất thế giới, hơn mười ngàn mét vuông chỉ để trồng các loại cây ăn quả và rau củ hữu cơ. Rooflite là một hỗn hợp đất giúp cây rau tăng trưởng khá tốt nhưng lại nhẹ hơn loại đất thường rất nhiều, đất thường sẽ quá nặng đối với những khu vườn trên mái. The Grange cũng là nhà sản xuất mật ong lớn nữa.
Khu dân cư gần nhất với nó là Vinegar Hill, nơi có nhiều các kiến trúc bằng gỗ cổ xưa. Mục tiêu hoàn hảo cho Krueger, nếu mục đích của hắn là dồn thành phố và tiểu bang đến chỗ cấm hẳn hoạt động khoan. Các trận “động đất” càng gây ra nhiều vụ hoả hoạn chết chóc thì càng tốt.
Don McEllis cúi mình trên bản đồ thành phố và dùng một cái bút đánh dấu mực đỏ để vẽ chính xác nơi đường đứt gãy chạy bên dưới Vinegar Hill. Nó hướng về tây bắc rồi chạy lên phía bắc vào trong cảng.
“Đây. Tôi sẽ tìm kiếm trong khoảng ba dãy nhà ở mỗi bên của đường này.”
Đó sẽ là một cuộc lục soát chính xác hơn nhiều so với lần theo toàn bộ đường đứt gãy, nhưng vẫn con cả chục toà nhà có thể chứa các thiết bị nổ ống ga dưới tầng hầm.
“Quét bản đồ đi, Mel, và gửi một bản sao cho các bên giám sát - sở cứu hoả và cảnh sát – trong khu vực đó. Làm ngay đi.”
“Được.”
“Sachs, em và Pulaski xuống dưới đó.”
Trong lúc họ vội vã lao ra cửa, Rhyme nói, “Mel, gọi sở Cứu hoả… và đồn cảnh sát. Gọi được càng nhiều người của họ càng tốt, kiểm tra các tầng hầm. À, gọi cả Cục thanh tra nữa. Larcency. Xem có ai tiếp nhận những vụ đột nhập gần đây nhưng không bị mất thứ gì không.”
Cooper gật đầu và nhấc điện thoại lên.
Rhyme gọi, “Và không chỉ gọi cảnh sát tuần tra đâu. Tôi muốn có tất cả những ai đeo phù hiệu. Bất kỳ ai!”