Rhyme đang ở trong chiếc xe tải dành cho người tàn tật, không xa khỏi hiện trường bắt giữ cạnh bờ sông ở Brooklyn.
Hiện giờ anh đang theo dõi qua cửa sổ và lắng nghe những giọng nói đứt quãng trong máy quét rada của cảnh sát.
Đúng là anh và Sachs đã có một bữa tối đáng yêu hôm qua. Nhưng họ không bàn về phim ảnh hay chính trị hay ngàn lẻ một chủ đề to nhỏ khác nhau mà các cặp vợ chồng vẫn bàn trong bữa ăn; họ nói về các đầu mối còn bỏ ngỏ, vẫn còn mắc kẹt trong lòng Rhyme về vụ án ở quận Kim Cương.
“Bất thường, Sachs ạ. Những mảnh ghép không ăn khớp hẳn với nhau.”
“Chẳng hạn như?”
Cô đang thưởng thức rượu Burgundy khá ngon. Tất nhiên là hiệu Chardonay. Nhưng không bị om mùi sồi, một vẻ tinh tế mà người Pháp – không như người California – đã thành thục. Rhyme nhấp nháp rượu của mình; anh đã đổi Glenmorangie sang Cab. Nếu một người phải uống vang thì nó nên là vang đỏ và phải đậm.
Anh giải thích đầu mối lỏng lẻo nhất: “Tại sao ngay từ đầu ông Jatin Patel lại sở hữu viên kimberlite?”
Cô nghiêng đầu. “Chưa bao giờ nghĩ về chuyện đó. Một câu hỏi hay.”
Anh hỏi với vẻ chế giễu hơi lộ liễu, “Chẳng lẽ có ai đang tản bộ ngang qua công trường địa nhiệt hoặc bãi rác và vô tình để ý thấy một cục đá đen xì không có gì nổi bật, rồi mang nó tới gặp một nhà buôn kim cương để đánh giá chắc?”
“Không hợp lý.”
“Một vấn đề nữa: Phải chăng toàn bộ vụ động đất giả này, nó không phi lý lắm sao? Gần như ai đó muốn chúng ta phát hiện ra là nó đã được dàn dựng vậy.”
“Đúng. Anh mải miết theo một vụ án có chuyển biến nhanh, anh không lùi lại.”
Rhyme nói, “Giả sử có một ông Y này.” “X bị lấy mất rồi à?”
Một nụ cười. “Nhớ không? Anh đã dùng chữ đó trước rồi.” “Okay, nói tiếp đi. Ông Y.”
“Hắn cũng có một kế hoạch. Ông Y hoặc kẻ nào đó làm việc cho ông ta gọi cho Krueger – ẩn danh nhé – và tuyên bố mình làm việc cho Mỏ Tân Thế giới. Họ đang cuống hết cả lên vì một công trường khoan khai thác ở Brooklyn đã đào được kimberlite giàu hàm lượng kim cương. Họ thuê Krueger tạo ra các vụ động đất giả để đóng cửa công trường và giết Patel hay tất cả những người biết về nó.”
“Và,” Sachs nói, “Ông Y đã chuyển một ít kimberlite từ Châu Phi và đặt nó ở công trường địa nhiệt.”
“Chính xác. Nhớ các dấu vết ta tìm được không? Coleonema pulchellum – bụi hoa giấy – cũng tới từ Châu Phi.”
Lúc ấy, Rhyme đã thưởng thức đến miếng thịt bê chấm sốt kem hạt thì là pha thêm rượu vermouth thứ hai. Ngày xưa, suốt mấy năm liền sau vụ tai nạn, Thom đã phải đút cho anh ăn. Gần đây, miễn là có người cắt thức ăn cho anh, hoặc dạng tự nhiên của nó là những miếng vừa mồm, anh có thể tự mình xử lý khá ổn phần ăn uống.
Cô nói, “Đến đây thì vẫn hiểu. Ông Y đã lập ra mưu đồ tỉ mỉ làm giả động đất mà bề ngoài là ngăn chặn việc sản xuất kim cương… nhưng ông ta lại có một kế hoạch hoàn toàn khác. Đó là…?”
“Anh chưa nghĩ ra được. Đầu tiên là chưa. Nhưng rồi anh tự hỏi, tại sao lại là Brooklyn, tại sao phải là công trường Northeast Geo? Ông Y có thể chọn bất kỳ một công trường xây dựng nào trong khu vực này. Không, phải có một điều gì đặc biệt ở Cadman Plaza. Và có gì độc nhất ở đó?”
“Các tòa nhà chính phủ. Các tòa án.”
Rhyme lại cười. “Và ở đó có mảnh ghép nào để kết nối các điểm không?”
“Em có cảm giác,” Sachs nói, “rằng đó hoàn toàn là một câu hỏi tu từ.”
“Ngày hôm trước, Pulaski ngửi thấy mùi ga trong dinh thự. Anh đoán là vì Lon vừa mới từ hiện trường ở nhà Claire Porter về - nơi họ tìm được lehabahs, quả bom ga. Nó không phát nổ nhưng đã làm chảy đường ống ga, và đã gây ra vụ rò rỉ lớn. Anh đoán anh ta đã bị ám mùi đó khi đến đấy. Nhưng anh đã gọi. Và anh ta không hề có mặt ở hiện trường.”
“Vậy mùi đó xuất hiện từ đâu?”
“Từ cái hộp tài liệu của vụ án El Halcón. Được ông Y chuyển đến cho anh.”
“Ông Y!” Mắt cô sáng lên. “Carreras-López.”
“Chính xác. Một trong những nhân viên của ông ta đã mang tài liệu tới cho anh. Dù chúng từng ở đâu thì đó cũng là nơi bọn chúng cất hương liệu. Có thể chúng đã dùng thử, hoặc nó bị rò rỉ.
Nhưng mùi hương bị lẫn vào tài liệu. Thế là. Các quả bom ga có mối liên hệ nào đó với vị luật sư của El Halcón và, có thể là cả phiên tòa xét xử hắn nữa.
Sachs suy luận, “Và việc đó giải thích lí do tại sao Carreras- López lại đến gặp anh với lời buộc tội ai đó đã cài cắm dư chất thuốc súng ở nhà kho.”
“Ừ. Ông ta muốn vào bên trong đội điều tra Nghi phạm 47. Kiểm tra chúng ta, đảm bảo chúng ta không nghi ngờ âm mưu kim cương là dàn cảnh. Nếu anh không đưa cho Bishop đầu mối quan trọng buộc tội sát nhân, anh nghĩ ông ta sẽ thành khách hàng thân thiết – hay đúng hơn là gián điệp.”
Cô đặt chiếc dĩa xuống. “Nhưng, lạy Chúa, Rhyme. Ông ta sẽ cố giải thoát cho El Halcón… có thể là ngày mai. Chúng ta chỉ ngồi đây thôi sao.”
Anh nhún vai. “Từ giờ đến lúc ấy không thể có chuyện gì xảy ra đâu. Anh đã gọi cho anh bạn mới Hank Bishop của chúng ta và biết là El Halcón đến đó lúc mười giờ sáng. Hơn nữa, ta còn chưa ăn xong.”
Cô nhìn anh tinh nghịch. “Và anh cũng đã gọi cho Lon, Ron và Fred Dellray, có khi còn gọi luôn cả đội ESU chứ gì. Khi nào họ sẽ có mặt ở đây?”
“Nửa tiếng nữa. Không chen ngang bữa tráng miệng của chúng ta đâu. Thom! Thom! Chẳng phải cậu định thổi lửa78 món gì đó đặc biệt cho Amelia à?”
78 Cách nấu dùng lửa món ăn đốt trực tiếp trên rượu mạnh
Vậy là sáng nay Sellitto và Dellray đã khởi động chiến dịch mà họ lên kế hoạch tối hôm trước. Họ quyết định rằng có thể Carreras- López sẽ dùng chính người của mình, giả dạng các lính gác, để cướp chiếc xe chở tù, nên các đặc vụ FBI và cảnh sát ngầm đã làm một vòng kiểm tra các lính gác trong và quanh tòa án. Họ tìm được hai người đóng giả - có mang súng giảm thanh. Dellray – bằng phong cách đe dọa không lẫn vào đâu được – đã thuyết phục họ khai ra chi tiết âm mưu để đổi lấy cáo trạng nhẹ hơn. (“Tôi khẳng định nhân ba lần với các anh, các anh sẽ không thích thú cái nhà tù đặc biệt đâu, chưa kể đám tù nhân ở nơi các anh sắp đến, nếu không giúp đỡ. Chúng ta đều hiểu rõ điểm này phải không?”)
Vậy là mọi chuyện đâu vào đấy.
Sau đó là cuộc tranh luận. Rhyme, Sachs, Dellray và Sellitto – và cả vài chỉ huy của NYPD, lẫn Tòa thị chính.
Họ đều biết rằng không có nguy cơ rò ga thật sự. Người của Carreras-López chỉ thả ra mùi hương, để kích hoạt việc sơ tán; chúng không dám mạo hiểm đốt luôn cả thân chủ của mình trong vụ nổ thật. Cảnh sát tòa án và NYPD có thể hoàn toàn lờ đi việc này và rỉ tai nhau rằng không có mối nguy hiểm nào. Mở cửa sổ, bật thông gió. Và phiên tòa sẽ tiếp diễn.
Nhưng Rhyme tin rằng nếu họ có thể bắt được Carreras-López, họ có thể mặc cả việc giảm tội với tay luật sư để đổi lấy thông tin về kẻ hợp tác với El Halcón.
Điều đó có nghĩa là họ phải để cho kế hoạch giải cứu tiến triển – nhưng đổi xe chở El Halcón và dùng một chiếc xe thứ hai, chứa đầy các cảnh sát tác chiến, để chạy ra chỗ trực thăng và tóm gọn cả luật sư lẫn toàn bộ tùy tùng.
Chính xác như những gì đã xảy ra, không sai lệch một ly. Điện thoại Rhyme rung lên với tin nhắn.
“FYI. Carreras-López đã chấp nhận đề nghị giảm án. Xác định đồng sự bên Mỹ: Roger Whitney, Thành phố Garden, Long Island. Cảm ơn, Lincoln.
-H.Bishop”
Lúc này, Rhyme nghe tiếng cửa sau chiếc xe Sprinter được mở đằng sau lưng. Anh quay lại.
Sachs đang đứng ở ngưỡng cửa, khẩu súng máy quàng qua vai, mũi súng chúc xuống. Tay trái của cô đang cầm mũ bảo hiểm, Rhyme nghĩ trong bộ cánh này trông cô cũng hấp dẫn không kém trong chiếc váy màu xanh.
“Em đi nhờ được chứ?” cô hỏi. “Anh nghĩ là em ngồi vừa.”
Sachs trèo vào và đóng cửa. Cô ngồi xuống, lôi băng đạn dự trữ ra khỏi súng và tháo băng còn trong khoang đạn. Mắt họ gặp nhau.
“Vậy là,” cô nói. “Xong nhỉ.” “Xong rồi, Sachs.”