Chính văn
詐言馬死喻
昔有一人騎一黑馬入陣擊賊,以其怖故不能戰鬪,便以血污塗其面目,詐現死相臥死人中,其所乘馬為他所奪。軍眾既去便欲還家,即截他人白馬尾來,既到舍已有人問言:「汝所乘馬今為所在,何以不乘?」
答言:「我馬已死,遂持尾來。」
傍人語言:「汝馬本黑,尾何以白?」默然無對,為人所笑。
世間之人亦復如是,自言善好修行慈心不食酒肉,然殺害眾生加諸楚毒,妄自稱善無惡不造,如彼愚人詐言馬死。
Phiên âm
TRÁ NGÔN MÃ TỬ DỤ
Tích hữu nhất nhân kỵ nhất hắc mã nhập trận kích tặc, dĩ kỳ bố cố bất năng chiến đấu, tiện dĩ huyết ô đồ kỳ diện mục, trá hiện tử tướng ngọa tử nhân trung, kỳ sở thừa mã vi tha sở đoạt. Quân chúng ký khứ tiện dục hoàn gia, tức tiệt tha nhân bạch mã vĩ lai, ký đáo xá dĩ hữu nhân vấn ngôn: “Nhữ sở thừa mã kim vi sở tại, hà dĩ bất thừa?”
Đáp ngôn: “Ngã mã dĩ tử, toại trì vĩ lai”.
Bàng nhân ngữ ngôn: “Nhữ mã bản hắc, vĩ hà dĩ bạch?” Mặc nhiên vô đối, vi nhân sở tiếu.
Thế gian chi nhân diệc phục như thị, tự ngôn thiện hảo tu hành từ tâm bất thực tửu nhục, nhiên sát hại chúng sinh gia chư sở độc, vọng tự xưng thiện vô ác bất tạo, như bỉ ngu nhân trá ngôn mã tử.
Dịch nghĩa
Xưa có một người cưỡi con ngựa đen đi đánh trận, vì anh sợ không dám chiến đấu, liền lấy máu bôi vào mặt, giả hiện tướng chết, nằm lẫn trong đám tử thi, con ngựa hắn cưỡi bị người ta lấy mất. Khi tan trận liền trở về nhà, lại cắt đuôi ngựa trắng của người khác đem về, về đến nhà có người hỏi: “Con ngựa anh cưỡi đâu?”
Đáp: “Nó chết rồi, còn cái đuôi đây thôi”.
Người ta bảo ngựa anh đen sao đuôi lại trắng? Anh yên lặng, bị người chê cười.
Người đời cũng thế, cho mình khôn khéo tu hành từ tâm, nhưng sống bừa bãi liền cho mình là hay, như kẻ ngu kia nói dối ngựa chết, rồi cũng lòi đuôi ra.