Khi dân chúng các làng trong thung lũng sông Vệ đặt chân xuống các khu đất trống hoang ở Nghĩa Hành – nơi mà về lý thuyết họ sẽ sớm có lều lán để ở - họ đã trở thành một bộ phận trong số dân chúng được đăng ký gồm 120.000 người ở tỉnh Quảng Ngãi bị mất sạch gia tài trong khi các nhu cầu tối thiểu về cơm ăn và lều ở cũng chưa được đáp ứng. Vào cuối tháng 6, ông Ernest Hobson, cố vấn dân sự về người tỵ nạn của tỉnh Quảng Ngãi, thuộc cơ quan AID (viện trợ Mỹ) đã viết trong bản “Phụ lục thống kê kèm theo Bản báo cáo tổng hợp đặc biệt của tỉnh Quảng Ngãi” phát hành hàng tháng như sau:
“Khó khăn lớn nhất của lĩnh vực công tác người tỵ nạn trong tháng này đã nảy sinh do cuộc hành quân của lực lượng Đặc nhiệm Oregon gây ra, khi bộ phận chuyên trách công tác tỵ nạn đã nhận được yêu cầu phải đặc biệt hỗ trợ cho hoạt động quân sự. Những khó khăn ngày một tăng thêm do tình trạng thiếu nhân viên người Mỹ và người Việt Nam. Vấn đề hậu cần, vấn đề ngân sách sẽ không thể nào giải quyết được nếu không có sự hỗ trợ khẩn cấp và đáng kể của cơ quan cấp vùng và của trung ương. Hoạt động quân sự nói trên đã vượt quá khả năng xây dựng trại dành cho người tỵ nạn mới, chỉ riêng họ Nghĩa hàng đang cần phải có thêm đến 500 trại.”
Vào lúc dân vùng thung lũng sông Vệ đến, khẩu phần lương thực dự trữ khẩn cấp đang bị thiếu trầm trọng; và vì một sự nhầm lẫn về hành chánh, mãi đến gần một tuần sau, Lục quân mới bàn giao khoảng sáu mươi hai tấn gạo – số gạo mà họ đã thu gom được trong vùng thung lũng. Sau bốn ngày nhịn đói, một số người được bố trí ăn ở trên mấy đám ruộng sát ngay bên cạnh kho gạo đã tìm cách phá kho vào ban đêm. Lính lục quân đã phải sử dụng lựu đạn cay và làm chết hai bé trai mười hai tuổi. Vào cuối tháng Tám, vẫn còn hai ngàn gia đình tại các trại, một số nằm tại thung lũng sông Vệ, chưa có bất kỳ một loại lều lán nào để che mưa, che nắng. Vào đầu tháng 8, Phó Đại sứ Robert Komer mới biết được tình hình trên qua tin tức truyền hình và báo chí, đã viết một bức thư đề ngày 15 tháng 8 cho bác sĩ Nguyễn Phúc Quế, Uỷ viên Ban tỵ nạn của chính quyền Sài Gòn. Bức thư được sao chụp lại và phân phát cho một vài quan chức cửa vùng I chiến Thuật*. Bức thư viết:
* Vùng I chiến thuật: Vùng quân sự bao gồm năm tỉnh duyên hải cực Bắc của Nam Việt Nam. (Chú thích của tác giả)
“Tôi chắc chắn rằng ông sẽ đồng ý với tôi là tình hình dân tỵ nạn hiện nay tại vùng I là nghiêm trọng.
Có ít nhất đến một nửa số dân tỵ nạn ở Nam Việt Nam đang ở vùng I. Tại nước Mỹ, nhất là trong Quốc hội, đang có nhiều lo lắng về tình hình cụ thể tại Vùng I. Trong tuần qua, trên báo chí và trên truyền hình ở Mỹ, đã có nhiều câu chuyện về tình hình Vùng I. Tôi lo sợi rằng vấn đề dân tỵ nạn tại vùng này đã vượt quá khả năng xử lý của chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Tôn lợp nhà và các vật tư làm lán trại khác đã bị thiếu trầm trọng, lại không đủ trực thăng vận chuyển. Nhu cầu về lương thực dự trữ khẩn cấp rất lớn. Chúng tôi được thông báo rằng số dân tỵ nạn được nhận khoản Trợ cấp Cứu tế tạm thời chưa đến 50%; số dân nhận khoản Trợ cấp Tái Định cư chưa đến 25%’ và hoạt động của Uỷ ban đặc biệt về người tỵ nạn gặp nhiều trở ngại nghiêm trọng do nhiều quan chức cấp tỉnh không quan tâm.”
Vị Phó Đại sứ tiếp tục đưa ra ý kiến nên có chế độ ưu tiên dành cho việc chuyên chở lương thực cho số dân chúng bị mất hết tài sản tại Vùng I.
Trong thư trả lời, bác sĩ Quế đã đổ trách nhiệm gây nên tình hình khủng hoảng này cho Lục quân Mỹ. Ngày13 tháng 10, hãng thông tấn Mỹ UPI đưa tin bác sĩ Quế nói rằng trong một vài trại ở Vùng I “lương thực thiếu thốn trầm trọng và có nguy cơ sẽ xảy ra nạn đói nghiêm trọng”. Bản tin viết tiếp:
“Bác sĩ Quế phàn nàn rằng nhiều lúc ông chỉ được thông qua trước một ngày khi các cuộc hành quân của quân đội Mỹ đột nhiên gây ra hàng ngàn người tỵ nạn.
Ông nói ông không thể nào chuẩn bị kịp để tiếp nhận hàng 10.000 người một lúc mà chẳng được thông báo trước.
Ông nói trong năm nay có đến 14 cuộc hành quân, gây ra khoảng 300.000 người tỵ nạn.
“Chỉ đến lúc cuối cùng, có thể là trước một hoặc hai ngày tôi mới nhận được điện thoại: ‘Này ông Quế ơi, ngày mai, tại chỗ này, chỗ kia, sẽ có 10.000 người tỵ nạn cho ông đấy!”.
Theo cuốn “Sổ tay Hoạt động Cứu trợ người tỵ nạn” áp dụng cho toàn quốc, có nêu rõ các quy chế xử lý vấn đề người bị mất hết tài sản ở Nam Việt Nam, tôi hiểu ra rằng từ ngữ “trợ cấp tạm thời” có nghĩa là khoản lương thực và tiền được sử dụng trong tình hình khẩn cấp đối với những người mới đến trại. Cuốn sổ tay nếu: “Mức chi trả Cứu trợ Tạm thời chính thức của nhà nước cho mỗi người tỵ nạn mỗi ngày là 10 đồng Việt Nam (khoảng 8 xu Mỹ), không phân biệt tuổi tác và dân tộc. Trợ cấp tạm thời có thể chi trả một lần bằng tiền hoặc một phần bằng tiền và một phần bằng gạo”. Tóm lại, theo ý kiến của Phó Đại Sứ Komer, trên 50% dân chúng trong các trại tỵ nạn tại Vùng I – với số lượng lên đến trên nửa triệu người - kể từ khi đến trại cho đến ngày 15 tháng 8, không được nhận lương thực của chính phủ Mỹ hoặc của chính phủ Sài Gòn. Nhờ có bức thư gửi đi, Vùng I mới nhận được một ít cứu trợ khẩn cấp. Nhưng từ giữa tháng 6, khi ông cố vấn Hobson viết thư cho đến cuối tháng 8, chỉ riêng ở Quảng Ngãi, cố người mất hết tài sản do các cuộc hành quân đã tăng lên 31.888 người và cuộc khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng. Để giảm bớt tình trạng thiếu thốn lương thực tại các trại huyện Đức Phổ, cứ một tuần vài ba lần, Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 4 lại thu gom được nửa tấn thức ăn thừa trong các bếp ăn tập thể của binh lính và phân phối cho các trại gần đó.
Nói về dân chúng trong các trại, các quan chức Mỹ thường tránh né không đề cập đến chuyện làm như thế nào và lý do tại sao dân chúng lại mất hết của cải mà chỉ nêu là “người tỵ nạn mới nảy “ hoặc “tỵ nạn Cộng sản” hoặc “người thoát khỏi đô hộ Cộng sản”. Khẩu hiệu “hai triệu dân tỵ nạn đã bỏ phiếu bầu cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà bằng đôi chân của mình”* đã trở thành một trong những câu nói sáo rỗng của cuộc chiến, và Cơ quan Hoạt động Dân sự Mỹ (American Office of Chivil Operations) đã đưa nhiều trại này trong báo cáo của họ vào danh sách “các thôn xóm được bảo đảm an ninh. Trong bản báo cáo tháng 8, ông cố vấn Hobson đã nêu vấn đề này bằng những lời lẽ khác:
* Ý nói đi khỏi vùng do Mặt trận Giải phóng kiểm soát – ND.
“Kể từ ngày 13/06/1967 đến nay, chúng tôi đã nhận được tất cả 31.888 dân tỵ nạn mới do kết quả trực tiếp của các cuộc hành quân của lực lượng đồng minh. Hầu hết số dân tỵ nạn mới này thực chất là số dân di tản. Mức tăng vọt dân tỵ nạn đã làm cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà không còn khả năng giải quyết tình hình. Lúc gạo, hàng hoá Mỹ và tôn lợp thiếu thốn nghiêm trọng Chính quyền cấp vùng và trung ương ở Sài Gòn bị thúc bách phải giải quyết vấn đề tôn lợp nhà trước mùa mưa. Vào lúc này có khoảng 2.000 gia đình không có nhà ở thích hợp hoặc bất cứ loại lều lán nào.”
Bản báo cáo tháng 6 “Tình hình chung về dân tỵ nạn trong tỉnh” do chính quyền cấp tỉnh Việt Nam Cộng hoà soạn thảo đã phân loại 80.000 trong số 122.680 “dân tỵ nạn” thành “dân sống phân tán”, có nghĩa là họ không được cấp lều lán ở trong các trại. Bản báo cáo nêu còn có 122.680 dân ở trong hoặc xung quanh các trại đã được xây 573 nhà xí, 33 trường học và 27 trạm xá, tính trung bình là một nhà xí cho 214 người, một nhà trường cho 3.000 trẻ em (ước tính số trẻ em chiếm 2/3 số dân tỵ nạn) và một trạm xá cho 4.543 người. Các tiện nghi này lại không được phân bố đồng đều giữa các trại. Trong số 68 trại có 50 trại không có trường học, 46 trại không có nhà xí, 42 trại không có trạm xá. Trong số 573 nhà xí, có 471 ở trong các trại của Sơn Tịnh và số 102 nhà xí còn lại là của các huyện khác.
Trong số 68 trại, ước tính có khoảng 15% dân chúng là người khoẻ mạnh. Chỉ có một số ít việc làm cho phụ nữ, nhất là việc làm trong các căn cứ Mỹ. Một số phụ nữ làm nhân viên phục vụ trong các nhà ăn của binh lính và một số khác làm công việc đổ cát vào bao tải để xây dựng căn cứ phòng thủ. Những lao động nữ đều được trả lương. Thất cả hai căn cứ Đức Phổ và Chu Lai, tù binh cũng đổ cát vào các bao tải và phục vụ việc xây dựng căn cứ phòng thủ. Tại các căn cứ, hình ảnh rất thường gặp là một toán phụ nữ đang lao động trên những cồn cát nóng, đổ cát vào đầy các bao và chuyên chở dưới trời nắng nóng trong khi một lính Mỹ ngồi gần cạnh mang theo một súng M-16; có một lần, tại căn cứ Chu Lai, người ta phát hiện một quả mìn nằm trong bức tường bao cát gần một kho đạn, bức tường bao cát này do một toán lao động trong số phụ nữ đã bị mất hết nhà cửa tài sản xây lên. Một số phụ nữ ở các trại tập trung đã trở thành gái mại dâm phục vụ cho lính Mỹ (một thị trấn nằm ngay sát trước cổng căn cứ Chu Lai bị coi là không an toàn nên lính Mỹ chỉ được vào các quán bar với gái điếm trong khoảng từ 8 giờ đến 11 giờ sáng). Số ít đàn ông còn có sức lao động có thể tìm một công việc tạm thời như đập đá trong căn cứ. Mọi công việc đều có người làm, tuỳ theo cách tuyển chọn lao động hàng ngày và tuỳ theo yêu cầu xây dựng của quân đội để tuyển mộ hoặc thải hồi công nhân. Một số ít khác đan rổ và làm các mặt hàng lưu niệm bán cho lính Mỹ. Tuy nhiên, tất cả các loại công việc này chỉ sử dụng nhiều nhất là vài trăm người. Số còn lại vẫn phải chịu cảnh thất nghiệp.
Các nhà ở điển hình trong các trại chủ yếu bao gồm các dãy lán dài xây dựng song song kiểu trại lính, không vách, không nền, chỉ có cột và mái tôn. Những người được xếp loại là “người sống phân tán” thì ngủ dưới các mái tranh có cọc chống, hoặc sống ngoài trời. Một vài người dựng lán bằng bìa cứng của các hộp giấy mang nhãn hiệu in sẵn lặp đi lặp lại nhiều lần. (Trên những bức tường làm bằng bìa cứng của những căn nhà này từ trên xuống dưới dày đặc những dòng chữ thường thấy trên các thùng khẩu phần lương thực của lính: “KHẨU PHẦN CHIẾN ĐẤU”, “KHẨU PHẦN CHIẾN ĐẤU”, “KHẨU PHẦN CHIẾN ĐẤU”). Vì dân chúng cần thực phẩm hơn nhà ở nên một số dân trong trại tập trung đem mái tôn được cấp đi bán cho dân ở thị xã Quảng Ngãi để lấy tiền mua gạo, mà giá gạo lại tăng lên ghê gớm do nhu cầu của các trại tăng lên đột xuất cùng lúc với mức sản xuất lương thực tại địa phương sụt giảm do đất đai bị bỏ hoang.Các quan chức cấp tỉnh và cấp huyện cũng lấy trộm tôn đem bán. Các phó chính ở thị xã Quảng Ngãi lấp lánh các mái tôn mới do việc mua bán bất hợp pháp này. Chính những mái tôn mới này đã báo động cho các cố vấn Mỹ phụ trách công việc về tỵ nạn biết phần lớn số tôn đã không được sử dụng vào việc làm lều trại cho dân chúng. Các trại được xây dựng tốt nhất là số trại có sự hợp tác của các quan chức Mỹ và Việt Nam được nhóm tín đồ giáo phái Cao Đài quản lý và ủng hộ thêm về tài chính. Như trong các trại khác, các trại này cũng được xây thành nhiều dãy thẳng hàng giống như trại lính, phân cách bằng những lối đi không trồng cây, nhưng nhà ở tại đây thường là các dãy tường vách đất khung tre và không ai phải nằm ngủ ngoài trời cả. Dân chúng trong các trại này, khác với trại khác, đã được chính phủ cấp một ít đất để canh tác.
Cuốn “Sổ tay Hoạt động Cứu trợ người tỵ nạn” nêu khái lược các thủ tục chuẩn mực mà các quan chức trong Vụ Tỵ nạn của Cơ quan Hoạt động Dân sự Mỹ ở Sài Gòn lập ra để giải quyết đời sống dân tỵ nạn trong các trại. Cuốn sổ tay đã vạch ra kế hoạch hai giai đoạn: Xây dựng Các trại tạm thời và Công cuộc Tái định cư. Phần I-B, Chương 3 của cuốn sổ tay thống kê một số tiện nghi “bắt buộc phải có” cho mỗi một trăm hộ dân trong các trại tạm thời là: 20 nhà xí, một lớp họ và hai giếng nước chẳng hạn. Phần I-C cùng chương này cũng thống kê nhiều hoạt động trong trại tạm thời bao gồm “hoạt động tập thể, hành động công dân vụ và hoạt động dân sự, xây dựng tinh thần đoàn kết trong người tỵ nạn, giáo dục xu hướng dân chủ” và “dạy nghề” như Chương 4 với đầu đề “Tái định cư” lại nêu “Trong bất cứ trường hợp nào cũng không được phép xây dựng các trung tâm dạy nghề. Cần phải sắp xếp để tận dụng các nhà dân hoặc nhà của chính phủ để tránh hao phí ngân sách không cần thiết”. Phần II với đầu đề “Thủ tục Đăng ký dân tỵ nạn” yêu cầu phải có một chuyên viên lấy dấu vân tay và chụp hình “những người chưa được xác minh”. Phần IV, Chương 3 nêu rõ ràng số tiền cứu trợ tạm thời 10 đồng mỗi ngày có thể cấp luôn một tháng và có thể kéo dài thêm một tháng nữa trong trường hợp “tình hình tại địa phương còn thiếu an ninh hoặc việc xây dựng các trung tâm tái định cư chưa hoàn thành kịp thời”. Phần IV –B thống kê số dân chúng theo các loại sau đây để xét được hưởng cứu trợ tạm thời:
1. Dân tỵ nạn từ các vùng thiếu an ninh được tập trung trong các trại tạm thời.
2. Những người xin vào cư trú các trại tạm thời mà không phải là người địa phương phải được phỏng vấn về lý lịch và lý do rời khỏi quê quán mình. Phải thông qua một điện văn của tỉnh nguyên quán để nắm được các chi tiết chế độ cứu trợ trước đây để có thể nhận định và xử lý. Trong lúc chờ đợi, họ được chấp chỗ ở tạm thời tại một trại tỵ nạn và chỉ được trợ cấp dụng cụ sinh hoạt.
3. Thân nhân của lực lượng nòng cốt và các thành viên Lực lượng dân vệ đến từ các vùng thiếu an ninh.
4. Thân nhân của các phần tử Việt Cộng cũng được xem xét vì lý do nhân đạo; tuy nhiên chính quyền địa phương cần phải theo dõi hoạt động đi lại của họ để đề phòng các hoạt động chống phá mà họ có thể gây ra.
Mặc dù tiền trả cho dân chúng trong các trại tạm thời dự kiến chỉ kéo dài nhiều nhất trong hai tháng, nhưng cuốn sổ tay cũng ghi rõ ở những nơi gọi là “các trại tạm thời cũ” có thể cần phải bổ sung thêm giếng nước và nhà xí.
Trong giai đoạn hai được ghi trong cuốn sổ tay có tên “Tái định cư”, dân chúng trong các trại tạm thời sẽ được coi là trở lại cuộc sống bình thường trong các làng mới là phải có công ăn việc làm, có nhà cửa thích đáng và được một hệ thống an ninh hữu hiệu bảo vệ chống lại ảnh hưởng của Việt Cộng. Sổ tay cũng nêu ra nhiều cách tái định cư. Trong mục “Trở về làng” là phương pháp tốt nhất được nói đến, cuốn sổ tay viết: “Đây là công thức tái định cư tốt nhất. Tuy nhiên, làng quê này cần phải được bình định hoàn toàn và bảo đảm tuyệt đối an ninh để loại trừ khả năng xảy ra một làn sóng di tản thứ hai”. Nếu người di tản từ các tỉnh khác đến, “tỉnh chủ nhà” chỉ được cấp cho họ tiền trợ cấp tạm thời sau khi đã được tỉnh nguyên quán khẳng định “đúng là số người này muốn trốn chạy khỏi chế độ cộng sản”. Phương pháp định cư thứ hai được gọi là “Tái định cư trong các Trại Tạm thời”. Cuốn sổ tay ghi: “Nếu không có vị trí nào thuận lợi cho việc tái định cư trong một tỉnh hoặc thành phố tự trị nào đó, dây tỵ nạn sẽ được bố trí vào các trại tạm thời. Về vấn đề này, các căn nhà tạm thời mà họ hiện đang ở sẽ trở thành nhà riêng của họ và chính quyền địa phương không phải trả cho họ tiền trợ cấp nhà cửa tái định cư là 5.000 đồng”. Chương 4, Phần II, Đoạn 2 xác định rõ là các địa điểm tái định cư phải đi lại dễ dàng bằng đường bộ và có nhiều tiềm năng hứa hẹn phát triển kinh tế.
Tại nhiều đoạn, cuốn sổ tay giải thích rõ dân chúng là nạn nhân của Việt Cộng cần phải được đối xử tốt hơn so với những người là nạn nhân do các cuộc hành quân của Mỹ hoặc do thiên tai. Chương 5 trong cuốn sổ tay nói về “cứu trợ tại hoạ” xác định rằng nếu có người nào trên mười tám tuổi bị Việt Cộng giết, gia đình người bị hại sẽ được nhận bốn ngàn đồng, nhưng nếu anh bị chết do những nguyên nhân khác, các khoản tiền sẽ được gộp lại dưới đề mục “chết do bất cẩn” và gia đình chỉ được nhận ba ngàn đồng. Ở cuối chương này, cuốn sổ tay ghi: “Trợ cấp nói trên chỉ áp dụng cho những người tỵ nạn đã nhận cứu trợ tạm thời hoặc đã được tái định cư hẳn trong thời gian dưới một năm. Quá thời hạn này, họ sẽ được coi là đã trở lại đời sống bình thường”.
Cuối tháng 8, tôi nói chuyện với ông Hobson, nhà quản lý – một người da đen có thân hình vạm vỡ, đã tốt nghiệp thạc sĩ về quản lý kinh doanh và, trước khi sang Việt Nam để làm cố vấn cấp tỉnh về người tỵ nạn, ông ta đã từng nhiều năm làm sĩ quan phụ trách ân xá tù nhân ở Mỹ và đã tham gia nhiều dự án thanh niên ở Háclem*. Ông bảo tôi:
* Harlem: Nơi có nhiều dân da đen nghèo khổ sinh sống ở New York.
- Kể từ ngày dân tỵ nạn đến đây, họ đã bị đối xử tồi tệ và chẳng hề được ai chú ý. Hiện nay có năm ngàn người sống không nhà. Lý do đơn giản là chúng ta chẳng có người và của cải để giúp họ. Tất nhiên đây là các trại tồi tệ nhất. Hai trại tốt nhất là do Phật giáo đỡ đầu. Hầu hết các trại đều có tình trạng là mười gia đình chen chúc nhau sống trong một diện tích dành cho một gia đình. Và chẳng ai có việc làm. 85% dân tỵ nạn là phụ nữ, trẻ em và người già. Nếu họ có chút ít đất nào để canh tác thì thường là đất xấu nhất, bởi vì đất của chính phủ thường là loại xấu nhất. Chúng tôi đã cố gắng tổ chức một lớp dạy nghề nhưng khó khăn cơ bản là ở chỗ này không phải là một nước công nghiệp nên rõ ràng là chẳng thể tìm ra công việc gì cho họ. Chúng ta không thể tách hơn mười hai vạn rưỡi nông dân ra khỏi đồng ruộng của họ và trông chờ họ tự tìm được một cuộc sống khả dĩ xung quanh các thành phố. Trong cuộc hành quân ở thung lũng sông Vệ, lần đầu tiên chúng tôi có tiến hành chiến tranh tâm lý. Vì thế dân chúng cũng có một khái niệm mơ hồ về những gì sắp xảy ra, nhưng được như vậy chỉ là do chúng ta kiên trì vận động. Trước đó, họ chẳng biết gì cả. Họ chẳng hề biết tại sao họ bị bốc đi, họ sẽ đi đâu và những gì sẽ đến với họ. Anh sẽ không tin là tình hình ở đây có những mẫu thuẫn. Nếu tôi kể chuyện với dân chúng ở bên Mỹ, họ sẽ bảo là tôi nói dối. Và thực trạng tình hình mỗi nơi một khác. Chẳng có trại nào giống trại nào. Cũng chẳng có đợt hoạt động nào giống đợt hoạt động nào. Và từng đợt hoạt động lại tiến hành riêng lẻ với nhau… Lục quân đột ngột báo cho chúng ta biết sẽ có 5.000 dân tỵ nạn sẽ đến, không có tài sản và lương thực. Quả giống như là một buổi hoà nhạc mà từng nhạc công cứ tự mình chơi theo ý thích riêng – như thế thì anh có thể biết đó là loại nhạc gì rồi!
Sau đó, tôi được xem một tờ truyền đơn chiến tranh tâm lý đã rải xuống vùng thung lũng sông Vệ. Một mặt truyền đơn là tấm hình của hai vợ chồng, mỗi người bế một đứa con trai. Cả bốn người đang cười trước ống kính. Dòng chú thích viết: “Tôi, Trịnh Sử và gia đình đã được tái định cư tại trại tái định cư Nghĩa Hành, tại đây chúng tôi đã nhận đủ trợ cấp của chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Tôi khuyên các bạn nên tuân theo các chỉ dẫn của quân đội Mỹ tại Nghĩa Hành và các bạn sẽ được sống an toàn như chúng tôi”. Mặt sau viết:
“Hỡi dân chúng ở thung lũng sông Vệ, chính phủ Việt Nam Cộng hoà kêu gọi các bạn hiện đang ở trong núi hãy xuống núi và đi về Nghĩa Hành. Tại đó, các bạn sẽ được chính phủ Việt Nam Cộng hoà và lực lượng đồng minh bảo vệ và chăm sóc. Bạn bè của các bạn dời đến Nghĩa Hành đã nhận được lương thực và thuốc men. Các bạn sẽ được an toàn tại Nghĩa Hành. Sẽ có nhà ở cho gia đình các bạn. Những ai trong số các bạn đang tìm cách ở lại vùng này sẽ bị coi là thù địch và sẽ gặp nguy hiểm.”
Cuối cùng, tôi đã nói chuyện với một trong số người đã thực hiện những tấm hình chụp để in vào truyền đơn. Đó là một anh binh nhì Mỹ cao trên 1,9 mét, người to, khoẻ. Anh ta nói:
- Chúng tôi đã phải nhăn mặt làm trò hề để cho những người đứng chung quanh cười. Chúng tôi đã cố gắng làm cho một ông già tuổi sáu mươi mặt xấu xí bật cười nhưng ông lão chỉ đứng yên lặng, không hề nhếch mép, dù chúng tôi đã làm đủ trò. Nhưng rồi khi tôi leo lên một cái thang để chụp hình, tôi trượt chân té ngã, đến lúc ấy mới thấy lão già chết tiệt ấy bật cười!
Trước khi tôi ra về, ông Hobson giải thích cho tôi rằng một trong số những điều rắc rối nhất ông ta gặp phải là tìm xem loại thực phẩm nào thích hợp cho việc ăn uống trong các trại. Sau gạo, lương thực chính của hàng cứu trợ Mỹ là hạt mì. Tuy nhiên, ông Hobson đã phát hiện ra rằng dân chúng trong các trại, kể cả người đang bị đói, đều bán số mì này cho người nuôi heo, một phần vì họ không thích mùi vị cháo mì này nhưng chủ yếu vì họ thấy phải tốn quá nhiều củi để nấu. Ở đây củi rất hiếm, đặc biệt là tại các trại; và nếu sử dụng cỏ và cành cây tìm trong nhiều ngày chỉ để nấu một bữa cháo mì thì chắc chắn là họ sẽ phải nhịn đói trong nhiều ngày sau đó, giống như sử dụng gạo ăn cả tuần để nấu ăn trong một ngày. Ông Hobson nói:
- Người Mỹ khó có thể biết chính xác người Việt Nam muốn cái gì. Ví dụ khó có thể phân biệt một người giàu và một người nghèo. Cả hai đều không có máy giặt và nhà trang trí kiểu cách. Sự khác nhau có thể chỉ là chiếc xe máy để ở trước nhà. Do đó, lính Mỹ thấy người Việt Nam nào cũng nghèo.
Ông Hobson nói đến công lao của ông Tề, người trợ lý mà ông rất quý trọng, đã liên tục dạy cho ông về phong tục Việt Nam. Ông nói to như để cho cả tôi và ông Tề cùng nghe:
- Ông Tề đang cố công luyện cho tôi để một ngày nào đó tôi sẽ trở thành một người Việt Nam lịch thiệp thứ thiệt. Và việc đầu tiên cần giải quyết là tiếng cười. Tôi vốn là người hay cười to tiếng và ông Tề nói đó là vấn đề số một cần phải giải quyết. Nhưng ông phải là tôi, tôi phải trở thành một người lịch thiệp với tiếng cười to của tôi. – Nói xong, ông lại cười rõ to.
Trong câu chuyện giữa chúng tôi sau đó, ông nói:
- Tôi hỏi anh, nếu chúng ta không tranh thủ được lòng trung thành của dân tỵ nạn ngay trong các trại này, thì làm thế nào tranh thủ được con tim, khối óc của những người đang sống trong các thôn xóm ở một nơi xa xôi hẻo lánh nào đó. Các ngài sếp bự cứ muốn chuyển dân chúng hết nơi này sang nơi khác. Các vị ấy bảo: “Người miền núi phải biết sống ở đồng bằng, người nông dân phải biết sống ở thành thị”. Vấn đề rắc rối ở đây là các vị ấy không có con tim. Đơn giản chỉ là vấn đề họ không có con tim.
Tôi nói các số liệu về người tỵ nạn thống kê trong tỉnh cho thấy có hàng vạn người đã được “tái định cư”.
Ông Hobson giải thích rằng điều đó đã được làm theo các điều khoản ghi trong “Cuốn Sổ tay Hoạt động Cứu trợ người tỵ nạn” về việc “Tái định cư trong các Trại Tạm thời”. Ông nói:
- Mọi công việc tái định cư đó đều chỉ là trên giấy. Đáng lẽ chúng ta phải đưa cho mỗi gia đình năm ngàn đồng Việt Nam là khoản trợ cấp tái định cư để họ làm nhà mới. Nhưng những gì mà ta làm là nói: “Đúng rồi, chỗ chúng tôi làm nhà cho các anh hiện nay là lâu dài, đó là nhà của anh rồi, nên các anh không được nhận năm ngàn đồng nữa.” Một cách làm khác là cử đến đây một thông trưởng và đặt cho trại một cái tên. Thế là có thể coi đó là một làng hay xóm. Tất nhiên địa điểm này phải đạt một số tiêu chuẩn nào đó, nhưng cơ bản cũng chỉ là việc trên giấy. Như vậy có nghĩa là trại này đã tách ra khỏi tay của Uỷ ban đặc biệt về người tỵ nạn và đã thuộc quyền quản lý của Bộ Phúc lợi Xã hội – mà rồi cũng là tôi…!
Ông Hobson lại cười to, một kiểu cười làm cho ông không thể trở thành một người Việt Nam lịch thiệp. Nhưng ông vội im lặng, rồi lắc đầu:
- Tôi không có đủ thời gian để xem họ từ đâu đến. Tất cả những gì mà tôi có thể làm được là tìm kiếm chút ít lương thực và tấm lợp nhà cho họ, nếu không thì coi như từ bấy đến nay họ chẳng được cấp gì cả.
Ngày 6 tháng 10, một bác sĩ người Anh đã làm việc tại bệnh viện dân sự Quãng Ngãi, bệnh viện duy nhất trong cả ba tỉnh này – trên ba năm đã viết một báo cáo rằng “điều kiện bảo đảm sức khoẻ trong các trại rất khác nhau”, ông giải thích rằng:
“Các trại thành lập đã lâu năm có tốt hơn chút ít. Ở các trại này thường có một người tạm gọi là y tá, có nhà vệ sinh, có giếng nước. Nhưng bệnh tật, nạn đói và thiếu dinh dưỡng là phổ biến.
Ở các trại mới, tiện nghi cấp nước và vệ sinh kém, tiền ít, lương thực ít, nhà ở tồi tàn, rét lạnh và bệnh tật cũng là phổ biến.
Các trại mới lập gần đây: chỉ có lều tạm, không nhà ở, không lều bạt, phơi mưa nắng, không có nước, không nhà vệ sinh, không tiền, không lương thực, bệnh kiết lỵ, sốt rét, thiếu dinh dưỡng, viêm gan truyền nhiễm, dịch bệnh là chuyện xảy ra hàng ngày. Nhiều người chết, trung bình mỗi tuần hai, ba người, vì các nguyên nhân trên. Nay mùa mưa đã bắt đầu, tương lai trước mắt ở đây sẽ thật là khủng khiếp. Trong toàn tỉnh có khoảng 5.000 đến 10.000 trại thuộc loại này.”