Ngày 11 tháng 8, ngày cuối cùng của cuộc hành quân Hood River, tôi bay theo một phi vụ của máy bay kiểm soát phía trước cùng với một phi công trạc 40 tuổi, nhân vật mà tôi sẽ gọi là thiếu tá Billings. Ở Billings có đôi nét dáng dấp thiếu cân đối, nhưng tính tình cởi mở, đôi mắt nhìn chăm chú, giọng nói hơi khàn và tiếng cười thẳng thắn, hồn nhiên; khi cười bụng anh ta phập phồng theo nhịp. Anh ta kể rằng mình đã làm phi công trong ba cuộc chiến tranh và đã hy sinh mọi thứ (kể cả vợ) để phục vụ Không quân. Người vợ đã ly dị anh vì hiếm khi anh đóng quân trong nước. Anh thích thú kể cho các phi công khác, với thái đội vui vẻ và thẳng ruột ngựa, về những trục trặc của mình với các cô bạn gái hiện đang sống ở Mỹ. Anh kể cho các bạn phi công rằng anh là tín đồ Thiên chúa giáo cho đến Thế chiến thứ hai, nhưng rồi nhận thấy rằng tất cả các phi công có đi lễ nhà thờ đều bị bắn hạ và từ đó anh không bao giờ trở lại nhà thờ nữa. Anh cho biết trong cuộc sống thường ngày, anh thích lái xe thể thao và lúc nào cũng mang với màu đỏ tươi.
Chúng tôi cất cánh lúc sáng sớm và lao vào bầu trời xanh thẳm. Billings được giao thực hiện một trận oanh tạc đã hoạch định trước và nghĩ rằng anh sẽ không có lệnh phải thực hiện các trận đánh ngay tức khắc. Từ Chu Lai, theo hướng Tây Nam, bay qua những đồn điền cao su và những cánh đồng bị bỏ hoang nằm dọc sông Trà Bồng giữa Quốc lộ 1 và dãy Trường Sơn, chẳng bao lâu chúng tôi đã tới huyện lỵ Trà Bồng nằm đơn độc giữa một vùng đồi núi rồi quay về hướng Nam, bay qua triền núi và tiếp tục tới một ngọn núi nhỏ hơn, theo toạ độ mục tiêu. Phía Nam mục tiêu vài km, ở lưu vực sông Trà Khúc, cuộc hành quân Hood River đang tới hồi kết thúc. Phía Bắc mục tiêu, những hố bom B-52 tạo một dãy dài những mảng đất màu vàng trên đồi núi trong một thung lũng, trên cao nhìn xuống trông như mặt biển sóng vỗ bập bềnh. Đỉnh dãy núi mục tiêu trải dài những nương rẫy của người Thượng, nhưng trên một ngọn núi đã lại là một khu rừng rậm vuông vắn mỗi cạnh dài chừng 200 mét và đây chính là mục tiêu của chúng tôi. Billings nói:
- Có nhiều người Thượng canh tác ở đây, họ trồng lúa và bắp.
Khi chúng tôi bay gần đến cánh rừng Billings chỉ cho tôi vệt khói bay trên những lùm cây và giải thích:
- Hãy nhìn những đám khói kia! Anh có thấy khói không? Việt Cộng đang ăn bữa sáng đây?
Tôi hỏi tại sao anh ta biết đó là khói của Việt Cộng. Anh ta nói:
- Sau một thời gian, anh có thể biết thói quen của Việt Cộng. Nhưng bây giờ thì chúng ta ra khỏi vùng này, cứ làm như chúng ta không biết gì hết. Ngay cả người Thượng ở đây cũng sống dưới quyền kiểm soát của Việt Cộng. Cách đây không lâu, chúng ta đã đổ quân vào đây khi cuộc hành quân Hood River bắt đầu, nhưng giờ thì đám quân này đã xuống đồng bằng rồi. Người Thượng rất buồn cười, họ sống ở chỗ trống trải. Chỉ có Việt Cộng là núp dưới những lùm cây. Toàn bộ đỉnh núi kia có thể là một trại căn cứ lớn. Tôi sẽ bay ra khỏi vùng này khoảng một giờ cho đến đúng thời điểm biên đội của tôi đến, làm thế để cho Việt Cộng không kịp đối phó.
Chúng tôi chuyển về hướng Bắc và bắt đầu lượn vòng trên huyện Trà Bồng. Trong lúc chờ đợi, trên radio lao xao những cuộc tán gẫu của các đơn vị bộ binh ở lưu vực sông Trà khúc. Ai đó nói: “Chúng ta bị một Việt Cộng tấn công. Tay này lớn tuổi, hắn cầm gậy xông vào tấn công một lính trinh sát của chúng ta. Người lính trinh sát quát hắn dừng lại và nổ súng bắn hắn ngã gục”. Có tiếng cười phá lên: “Nói nghe như một trận đánh dữ dội thiệt”, rồi lại có tiếng cười.
Một phút sau, một giọng khác từ mặt đất cho biết: “Nếu các anh bay ra xa khỏi ngôi làng đang bốc cháy ở điểm xa nhất về phía Bắc, các anh sẽ ra ngoài khu vực tác chiến của chúng ta”.
Một giọng khác: “Chúng tôi đã thu được một số vũ khí và gom được một số dân tỵ nạn”. Một giọng khác nữa lại cho biết: “Chúng tôi đã thu được hai tấn gạo”.
Sau khi chúng tôi lượn vòng hai mươi phút, ba chiếc máy bay tiêm kích oanh tạc báo cáo đã đến khu vực và thiếu tá Billings ngay tức khắc nhận ra họ ở vùng trời phía trước mặt. Họ báo cáo là mang sáu quả bom 500 pound (tương đương 230kg) và 6 quả bom na-pan. Quay trở lại mục tiêu, Billings nhìn thấy đám khói vẫn còn vương trên các lùm cây. Anh ta thốt lên:
- Cha mẹ ơi, đây chính là điều tôi mong chờ! Chúng nó vẫn còn ở đó!
Ngoặt nhanh trở lại, Billings sà thấp xuống ngọn núi điều chỉnh hướng bay sao cho hình bóng lùm cây trùm kín dần toàn bộ mặt kính chắn gió ở trước mặt buồng lái trong khoảng năm giây. Một quả rốc két phóng ra từ cánh máy bay và gây một tiếng nổ lớn. Lập tức, Billings cho máy bay ngóc lên, dập mạnh chúng tôi xuống ghế và bay vọt khỏi ngọn núi, để lại phía sau một cột khói trắng dày đặc bốc lên từ lùm cây cách đám khói lúc đầu khoảng 30 mét về phía Nam.
- Hãy ném bom xuống nơi cách cột khói khoảng 30 mét về phía Bắc. – Billings nói với viên chỉ huy tốp bay.
Tiếp tục lái máy bay của mình lượn theo một vòng hẹp phía dưới hai đỉnh núi bên cạnh, Billings quan sát chiếc tiêm kích- oanh tạc đầu tiên bổ nhào xuống khu rừng để hướng dẫn thực hành cho các máy bay khác. Chiếc thứ hai ném hai quả bom xuống rừng, nổ cách đám khói lúc đầu khoảng 100 mét.
- Được, được đấy! – Billings thốt lên. Anh ta nói với chỉ huy tốp bay: - Cố gắng sao cho những quả bom tiếp theo rơi cao tý nữa ngay ở phía trên cột khói của tôi.
Loạt bom tiếp theo hoàn toàn không trúng khu rừng mà lại rơi xuống một khoảng toàn cây lúp xúp. Thiếu tá nhắc lại:
- Tôi muốn các anh ném gần cột khói của tôi kia mà. Tiếng của chỉ huy biên đội:
- Xin lỗi nhé.
Máy bay tiếp sau đã ném bom xuống đỉnh núi, cách đám khói đầu tiên chừng 30 mét.
Billings reo lên:
- Đẹp đấy, con ạ. Ném trúng đấy!
Một máy bay bắn hai ống phóng na-pan xuống phía bên kia đỉnh núi, vào cánh rừng dưới chân núi đá. Billings nói: “Bên đó không phải là mục tiêu đâu”. Chùm bom na-pan tiếp theo rơi vào cánh rừng cách cột khói rốc két của Billings khoảng 50 mét về phía Tây và chùm bom thứ ba, cũng là chùm cuối cùng rơi cách khoảng 30 mét về phía Nam. Chúng tôi bay vào khu vực mục tiêu và lượn trên cánh rừng rậm ở độ cao khoảng trên dưới trăm mét và sà xuống thấp đến độ mặt đất dường như ở ngay phía dưới cánh trái máy bay. Những đám bụi mù do bom nổ tung lên và khói đen do bom na-pan đốt cháy bay lên từ cánh rừng. Một ít chất na-pan không phóng ra hết tiếp tục tự cháy ở những vạt rừng nhỏ và những trái bom 500 pound đã phạt đi những vạt cây thành những khoảng trống chiều ngang khoảng ba mét. Mùi bụi, đất, lá, cây cháy và khói cay nồng xông vào mũi khi chúng tôi bay qua cánh rừng vừa bị tàn phá. Sau một vài giây, Billings chấm dứt vòng lượng chóng cả mặt, kéo cần lái đưa máy bay lên cao và nói với chỉ huy tốp bay:
- Nơi có khói bốc lên chẳng còn gì nữa. Anh làm việc giỏi lắm. Tôi sẽ ghi cho anh vào báo cáo là 80% bom đã ném trúng mục tiêu, do hai loạt bom rơi trúng khu rừng. Cám ơn nhiều, hẹn gặp lại khi khác nhé.
Billings nói thêm với tôi:
- Tôi không biết những người ở khu rừng ấy là dân gì, nhưng giờ này thì họ không còn ở chỗ ấy nữa đâu.
Vì còn một giờ nữa chiếc máy bay FAC khá mới đến thay thế, nên Billings quyết định bay về phía Đông vào đồng bằng sông Trà Khúc, tại đây Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn không vận 101 đang kết thúc cuộc hành quân Hood River. Viên thiếu tá nói: “Chúng ta không thể nhìn thấy gì từ độ cao 500 mét”, và khi chúng tôi bay qua dãy núi và vùng đồng bằng ven biển đông dân, anh ta sà xuống độ cao 50 mét và bắt đầu bay theo hình chữ S để gây khó khăn cho các tay bắn tỉa. Binh lính của Sư đoàn 101 đang đốt nhà trên vùng đồng bằng ngay phía Bắc sông Trà khúc. Cách đó khoảng vài trăm mét và ở độ cao dưới ba mươi mét, tôi nhìn thấy những đám lửa màu da cam bốc lên từ các căn nhà và những bóng người màu xanh đang cuồng dại, chao đảo trong hơi nóng cuồn cuộn như sóng và đôi khi như bị ngụp chìm trong đó. Thiếu tá Billings tiếp tục bay ngoằn ngoèo và sà xuống thấp rồi đột nhiên chúng tôi thấy một bóng người mặc bộ đồ đen, đi trên bờ ruộng và biến vào một lùm cây rậm, nơi có một ngôi nhà vẫn còn đứng nguyên. Thiếu tá ngoặt hẳn máy bay sang trái và sà thấp xuống trên bóng người đi trên đường, người này dừng lại và ngước nhìn lên. Billings nói với tôi:
- Hoá ra là một bà già. Lẽ ra bà ta không được có mặt ở đây, họ có 24 giờ rời khỏi nơi này nhưng họ cứ quay trở lại. Đây là một trong những khó khăn lớn. Ta đã báo cho họ biết là không được ở trong khu vực bắn phá tự do vì họ có thể ăn đạn, song họ cứ quay lại. Nếu là nam giới, chắc chăn đó chỉ là một trong hai loại – trốn quân dịch hoặc Việt Cộng.
Tôi hỏi xem chính sách của chính quyền xử lý những kẻ trốn trại tập trung và quay về gia đình ra sao.
- Chúng ta không thể biết chắc những người này thuộc loại nào, song nếu như nơi nào đó đầy rẫy Việt Cộng, viên tỉnh trưởng cho phép chúng tôi được huỷ diệt cả nơi đó.
Đúng lúc đó, chúng tôi bay qua một con suối chảy qua những cánh đồng và thấy ba bé trai trần truồng đang tắm trong một ao nhỏ, mắt nhìn lên máy bay của chúng tôi. Billings nói:
- Nhìn kìa, dân đang trốn ở đó, nhưng bây giờ nơi này không còn nằm trong khu vực hành quân của chúng ta nữa.
Chúng tôi đã bay nhiều dặm xa phía Bắc cửa sông và đây đó trong đám đổ nát vẫn còn một số khu nhà còn nguyên vẹn. Có dân đi lại trên những con đường gần các khu nhà đó và trẻ em vẫn chơi đùa trên sân, tuy nhiên ít có cánh đồng nào không có dấu vết những hố bom và đạn pháo.
Tôi hỏi xem Billings làm thế nào phân biệt được Việt Cộng với dân thường. Billings nói:
- Nếu họ bỏ chạy cũng là một cách. Ngoài ra còn có nhiều cách khác nữa. Đôi khi anh thấy rất đông người trên đồng ruộng, trông như một nhóm nông dân. Anh cũng biết là người dân chẳng thích gì Không quân Mỹ, và họ không nhìn vào những máy bay trên đầu họ. Nhưng ngay trên những cánh đồng đó, anh thấy có một thằng cha nào đội nón chóp cứ ngẩng lên cúi xuống liên tục. Hắn nhìn lên vì hắn muốn biết chúng ta bay theo hướng nào.Thế rồi anh bay qua bay lại vài vòng trên cánh đồng và có một gã dừng lại nhìn theo. Nếu đó là kẻ đã ngước nhìn máy bay của anh lúc nãy, anh có thể kết luận đó là Việt Cộng. Anh quan sát hướng đi của Việt Cộng này và gọi máy bay đến oanh tạc. Anh có thể phân biệt Việt Cộng và dân thường theo cách đó. Có hàng trăm cách phân biệt. Nó như là bản năng thứ hai, làm nhiều lần thành quen. Đôi khi anh thấy Việt Cộng ngâm mình trong bùn ẩn nấp ở bờ ruộng. Điều khó là ngoài rốc két ra, phi công chúng ta không có vũ khí nào khác. Nhưng đã có lần tôi loay hoay đuổi theo một gã đến gần chết. Tôi bắt gặp hắn ở ngoài chỗ trống và tôi lượn qua, hắn chạy đi, tôi vọt qua bên kia, hắn lại chạy ngược lại. Hắn núp trốn dưới cây, tôi sạt qua lùm cây, hắn dừng lại. Tôi phải rượt theo hắn suốt một giờ rồi mới gọi được máy bay đến làm một trận oanh kích.
Tôi nói đây là một cách bắn tỉa bằng bom. Anh ta trả lời:
- Đúng vậy. Anh cứ gọi thế cũng được.
Sau đó, khi quay trở lại căn cứ của phi công FAC, thiếu tá Billings cho biết:
- Theo tôi, anh có thể gọi đó là một loại trực giác. Tôi nghĩ, bây giờ tôi có thể ngửi thấy Việt Cộng cách khoảng 150 mét. Giống như mọi việc khác, có người có khiếu nhưng có người lại không. Một số người không thể nhận ra Việt Cộng dù họ có cố gắng bao nhiêu đi nữa.
Đêm đó, cuộc hành quân Hood River chấm dứt. Binh lính nghỉ ngơi ngoài trời một ngày và họ được tiếp tế toàn đồ tươi để chuẩn bị cho cuộc hành quân mới.