Có một sự khác biệt rõ ràng khi ai đó công nhận sự hiện hữu, trái ngược với khi ai đó công nhận hành vi nhất định của ta. Ta dễ dàng tỏ thái độ cảm thông với người khác, “Tôi hiểu”. Nhưng trên thực tế, ta không hiểu. Ngay cả khi ta ở trong tình huống tương tự, ta cũng không trải qua tình huống đó từ vị thế, quan điểm và cảm xúc của họ. Mục đích khiến ta nói “Tôi hiểu” mới quan trọng. Ta nói vậy vì ta muốn võ đoán về trải nghiệm của họ ư? Hay vì ta muốn nói rằng, “Tôi đang ở bên cạnh bạn đây,” và quan trọng nhất là “Tôi chấp nhận rằng đó là cảm xúc mà bạn đang trải qua”? Sự khác biệt là ở chỗ liệu câu nói đó có dính mắc với cái tôi của ta, hay là ta thực lòng bước vào trạng thái chấp nhận người khác để trợ giúp chân ngã của họ.
Ta đang nói về sự cảm thông. Cốt lõi của sự cảm thông là khả năng cho phép người khác được trải nghiệm theo cách của họ, còn ta chỉ là nhân chứng. Vì vậy, bước đầu tiên để một người trưởng thành biết cảm thông là ta phải cho phép con được nếm trải tất cả trải nghiệm của con, để con được toàn quyền sở hữu sự nếm trải ấy, và ta không được phép điều chỉnh hay kiểm soát. Nói cách khác, biết cảm thông là ta biết công nhận sự hiện hữu của con, nói cho con biết rằng con có quyền đối mặt với cảm xúc của bản thân. Ta không cần phải đồng ý hay bất đồng, ta chỉ cần cho phép cảm xúc của con được tồn tại. Ta không cần tốn công mất sức để phủ nhận, định hình, hay thay đổi cảm xúc của con. Thay vào đó, ta cần cho con biết rằng ta đang lắng nghe và quan tâm đến những điều còn ẩn sâu bên dưới lời nói của con.
Sự cảm thông đòi hỏi ta phải sẵn sàng tạm ngưng cảm xúc của bản thân, như vậy ta mới có thể hỗ trợ cảm xúc của con. Việc này sẽ khó khi con trải qua khoảnh khắc cảm xúc khó khăn, đặc biệt là khi con ghen tị, tức giận, có lỗi, hay oán giận. Trên thực tế, cha mẹ khó có thể chịu đựng khi con có cảm xúc tiêu cực đối với ta và người khác.
Một ngày nọ, sau khi tôi đón con gái ở trường, con muốn được đi chơi công viên. Tôi không đồng ý. Con bé xin đi thư viện. Tôi cũng không đồng ý. Cuối cùng, con bé xin đến nhà bạn chơi đã hẹn trước, vậy mà tôi cũng vẫn không đồng ý. Và lần nào tôi cũng có lý do: tôi phải nấu cơm tối, bố đang về, hai mẹ còn còn phải làm rất nhiều việc. Con bé bắt đầu ỉu xìu, hờn dỗi và giận đùng đùng. “Mẹ ích kỉ thế. Mẹ không bao giờ cho con làm gì cả. Con ghét hôm nay. Đáng ghét.”
Thay vì ở bên nỗi thất vọng của con, cho phép con trải nghiệm cảm xúc của bản thân mà không phải vướng bận đến cảm xúc của mẹ, cái tôi của tôi trỗi dậy. Sau khi trách mắng con vì “con ích kỉ” và gọi hành vi của con là “mè nheo”, tôi bắt đầu giáo huấn con về tầm quan trọng của lòng biết ơn. Và tôi cảm thấy có lỗi khi làm như vậy. Càng giáo huấn con, tôi càng cảm thấy có lỗi và tôi càng muốn tìm cách khiến con bé cảm thấy nó có lỗi.
Khi tinh thần tỉnh táo, tôi tự hỏi, “Tại sao mình lại sợ lời nhận xét của con đến vậy? Có phải mình quá dính mắc với việc con phải có lòng biết ơn đến mức không cho phép con được có cảm giác thất vọng?” Tôi hoàn toàn có thể dạy con những bài học thú vị đó sau khi tâm trạng con tốt hơn. Nhưng tôi đã không cho con cơ hội được bình tĩnh, thay vào đó, tôi xoa dịu cảm xúc về sự không thích đáng mà con gợi lên trong lòng tôi khi nói tôi là “mẹ ích kỉ thế” bằng cách khiến con cảm thấy có lỗi.
Ta thường mắng con khi con đối mặt với cảm xúc tiêu cực. Bấu víu vào niềm hi vọng rằng chỉ cần ta muốn, cảm xúc tiêu cực của con sẽ biến mất một cách kỳ diệu và ta sẽ không phải đối mặt với sự non nớt, thậm chí xấu xí của con, vì vậy ta khuyên lơn, “Con không được tức giận,” “Con đừng có ghen tị thế,” hay “Đừng có cảm thấy thất vọng như thế!”
Khi nói như vậy, ta muốn đẩy hết cảm xúc tiêu cực của con vào những góc tối nhất trong tâm trí con. Hậu quả là con lớn lên mà hoàn toàn tách biệt khỏi cảm xúc của bản thân. Và con phải trả giá bằng một cuộc sống luôn bị phủ nhận. Dù có thể không phải trong giai đoạn thiếu niên, nhưng có lẽ nhiều năm sau, những cảm xúc bị chôn giấu này sẽ trỗi dậy sau một sự kiện hay một mối quan hệ, và khi đó, những đứa trẻ nay-đã-trưởng- thành của ta sẽ bị choáng ngợp vì con chưa được trang bị sẵn sàng để đối mặt với những cảm xúc đó.
Nếu ta không thể cảm thông trước mọi cảm xúc của con, điều đó sẽ khiến con sợ hãi cảm xúc đó. Ví dụ như, khi tôi đi công viên nước với con gái lần đầu tiên, con nói “Con sợ lắm mẹ ơi” khi nhìn thấy đường ống trượt dốc đứng. Phản ứng đầu tiên của tôi là gạt ngay cảm giác sợ hãi của con bằng câu nói, “Ôi nào, con đừng ngốc thế. Con có thấy rất nhiều trẻ con đang trượt kia không?” Hoặc tôi trấn an con, “Mẹ ở đây rồi, không sao đâu.” Tôi nghe thấy rất nhiều cha mẹ nói với con, “Đừng sợ, có gì đâu mà sợ.”
Tôi đã kiềm chế phản ứng này, vì sau một giây suy ngẫm, tôi nhận thấy con bé sẽ không thể đỡ sợ hãi hơn nếu như tôi chỉ nói với con bé là đừng sợ. Thay vào đó, tôi nói, “Mẹ biết là con sợ mà. Mẹ cũng sợ nữa. Mẹ sợ lắm. Nhưng quan trọng là dù sợ rùng mình nhưng mẹ con mình vẫn phiêu lưu.” Con bé hiểu ý của tôi. Vậy là mẹ con tôi cùng đứng vào hàng và lẩm nhẩm, “Sợ quá, tôi sợ quá!” Do đó, thay vì e sợ, nỗi sợ hãi ấy khiến mẹ con tôi phấn khích. Khi hai mẹ con tôi trượt ống nước và chui khỏi đường ống, tôi có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chấp nhận rủi ro ngay cả khi ta sợ hãi.
Ta nghĩ mình cần dạy con không được sợ hãi, không được tức giận, không được buồn bã. Nhưng tại sao con không được tỏ ra sợ hãi khi con thấy sợ? Tại sao con không được tỏ ra buồn bã khi con thấy buồn? Tại sao ta lại bắt con phải chối bỏ cảm xúc của bản thân? Ta sẽ trợ giúp con nhiều nhất nếu như ta giúp con chuẩn bị tinh thần để vượt qua cảm xúc, chứ không phải khi ta ra sức gạt bỏ cảm xúc của con.
Chỉ cần ta cùng con trải qua trải nghiệm, dù trần tục đến mấy, ta đều có thể khuyến khích con nói lên cảm xúc của bản thân một cách thẳng thắn và thực tế, ví dụ như, “con buồn quá vì bạn con không đến chơi được,” “trời tối con sợ lắm,” hay, “ở đây ồn ào quá”.