Có kẻ nọ, nhân lúc nửa đêm lẻn vào một ngôi nhà giàu có để ăn trộm, hắn ta còn dắt thêm đứa con trai của mình để dạy đứa nhỏ cách ăn trộm. Tên trộm nói với đứa con: “Con đứng ở ngoài cửa canh chừng giúp cha, hễ thấy có người đến thì báo cho cha biết nhé!” Dặn dò xong, tên trộm lập tức thể hiện tài nghệ, trong lúc hắn ta đang chuẩn bị ra tay thì đứa con đứng ngoài cửa hô to: “Cha ơi, có người thấy chúng ta rồi!”
Tên trộm nghe thấy thế liền ba chân bốn cẳng kéo đứa con chạy một mạch vào rừng. Chạy được một lúc, đến đoạn đường vắng, cả hai cha con liền dừng lại thở lấy hơi, tên trộm hỏi đứa con: “Lúc nãy ai đã thấy chúng ta vậy?” Đứa bé ngây thơ trả lời: “Thưa cha, là mặt trăng nhìn thấy chúng ta ạ!”
Câu chuyện cười này muốn nói đến việc, mặc dù không ai biết chúng ta làm chuyện xấu, nhưng chẳng lẽ trời không biết, đất cũng không hay? Chẳng lẽ luật nhân quả và các vị Phật, Bồ tát đều không biết sao? Nên nói: “Mười mắt trông thấy, mười tay trỏ vào” (sự việc rành rành, không thể chối cãi được), nên tin chắc như vậy.
Từ xưa đến nay, mặt trăng vốn được nhiều người yêu thích, nhất là những tao nhân mặc khách, những người tôn trọng tình nghĩa, yêu chuộng cái đẹp và sự thiện lành. Khi ánh trăng rực sáng, lơ lửng treo cao trên bầu trời, cũng là lúc các văn nhân thanh nhã không hẹn mà gặp, cùng thưởng trăng ngâm vịnh thơ ca.
Nên mới có câu nói: “Trăng sáng sao thưa, đời người mấy chốc?” Trong tiếng thở dài ngắn ngủi của kiếp người, dường như cũng ẩn chứa một nỗi niềm xót xa, u sầu cho chí lớn chưa thành. Cũng như từ ngàn xưa, mỗi khi dân tình có nỗi oan không sao bày tỏ, nỗi thống khổ không sao kể xiết thì chỉ còn cách ngước mặt lên hỏi trăng sáng, rồi âm thầm chịu đựng.
Đúng như thế, mặt trăng tượng trưng cho ánh sáng, sự tròn đầy. Các cặp đôi đang trong giai đoạn yêu đương nồng nhiệt, đôi bên thắm thiết mặn nồng, thề nguyền dưới trăng, hy vọng ánh trăng xưa sẽ làm chứng cho lời nguyện thề tình yêu. Ấy thế mà, chuyện đời vốn dĩ vô thường, bóng trăng kia sao có thể làm chủ cho lòng người được?
Thời Nam Tống, dân gian thường lưu hành câu dân ca:
Ấy vành trăng khuyết chiếu chín châu,
Bao nhà vui vẻ mấy nhà sầu?
Trăng có khi tròn khi khuyết, lúc tỏ lúc mờ, người cũng buồn vui tan hợp, tụ tán phân ly. Mấy độ trăng tròn trăng khuyết, người ta hẳn đã đi qua hết bể dâu của chuyện đời, cùng những thăng trầm, khó khăn của cuộc sống.
Lý Bạch từng cảm khái:
Người xưa chẳng thấy trăng nay,
Trăng nay tỏ chiếu, cũng rày thuở xưa.
Ánh trăng từ xưa đến nay muôn đời vẫn vậy, trăng từng chiếu sáng cho người xưa, trăng cũng tỏ rạng đến ngày nay, trước sau như một, chỉ là ánh trăng còn đó mà người xưa đã không còn. Ánh trăng mà chúng ta đang nhìn thấy ở ngày hôm nay, vẫn sẽ tiếp tục tỏ rạng đến mãi về sau. Thế nhưng, mặt trăng ở tương lai liệu có còn chiếu sáng cho chúng ta nữa hay không? Chuyện đời vô thường, thời gian vô định, khó trách bao thi nhân cứ mãi hoài niệm đến ánh trăng.
Có người nói:
Trăng tối trung thu mấy độ thưa
Đời người tận hưởng được bao mùa?
Trăng khuyết rồi có khi đầy, trăng thưa rồi lại sáng tỏ. Thế nhưng, đời người khi đã trôi qua thì biết bao giờ mới trở lại?
Cổ đức từng nói:
Trăng tròn trăng khuyết, vẫn còn trăng
Xưa nay không tối, sáng chi rằng?
Sở dĩ mặt trăng chúng ta đang nhìn thấy có khi tròn khi khuyết, lúc sáng lúc tối là do sự chuyển động của những ngôi sao, hoặc do mặt trăng bị mây đen che đi ánh sáng. Còn đối với mặt trăng, nó vốn không tròn không khuyết, cũng chẳng sáng chẳng tối, từ xưa đến nay, mặt trăng vẫn chính là mặt trăng vậy.
Có thể nói, tâm của chúng ta cũng giống như mặt trời và mặt trăng, dù tròn hay khuyết, dù sáng hay tối, vẫn nghiễm nhiên tồn tại. Chỉ cần trong tâm của chúng ta luôn được ánh sáng trí tuệ soi chiếu:
Mặt trời lửng tận trên cao
Trăng kia chiếu sáng đến bao tâm hồn
Trời, trăng kia mãi trường tồn
Ánh soi tỏ rạng nghìn muôn cõi lòng.