KẾT LUẬN CỦA MILGRAM ĐI VÀO CUỘC SỐNG
Năm 2009, tờ New York Times và hầu như tất cả hãng tin tức khác đều đưa tin về đợt bùng phát khuẩn salmonella đã làm cho 9 người tử vong và hơn 700 người nhiễm bệnh. Đợt bùng phát này đã khởi động cho quá trình thu hồi lương thực lớn nhất lịch sử nước Mỹ. Sự lây nhiễm bắt nguồn từ các sản phẩm do hơn 300 công ty sản xuất, sử dụng đậu phộng và bột đậu phộng do công ty Peanut của Mỹ (PCA) tại Lynchburg, Virginia cung cấp. Liệu người đứng đầu PCA có làm mọi thứ trong khả năng của mình để đảm bảo những người luôn tin tưởng ông và công ty của ông được an toàn? Đáng buồn thay, câu trả lời là không.
Các nhà điều tra của FDA kết luận rằng PCA đã cố ý vận chuyển các sản phẩm bị nhiễm độc (công ty phủ nhận lời buộc tội này). Và các chứng cứ về việc ban lãnh đạo công ty đã gây áp lực rất lớn lên nhân viên của mình để đạt được mục tiêu là rất khó chối bỏ. Stewart Parnell, chủ tịch công ty Peanut của Mỹ đã gửi một lá thư điện tử tới một trong những người quản lý nhà máy và phàn nàn về việc kiểm tra vi khuẩn salmonella dương tính đã “làm tổn thất nhiều đô la của chúng ta, nguyên nhân rõ ràng là do sai sót lớn kể từ lúc chúng ta nhận đậu phộng cho đến lúc bán ra”, dựa theo tài liệu của tòa án. (Bốn năm sau, khi tài liệu này được công bố, các công tố viên liên bang đã đệ đơn cáo buộc hình sự ông Parnell và một số người trong công ty. Công ty này đã ngừng hoạt động năm 2009). Khi mối quan hệ của chúng ta với khách hàng hoặc nhân viên trở thành khái niệm trừu tượng, một cách tự nhiên chúng ta sẽ theo đuổi những điều hữu hình mà ta có thể nhìn thấy – đó là các con số. Nếu nhà lãnh đạo đặt các con số lên trên cả cuộc sống, thì đó là những người thường xuyên tách biệt bản thân với những người mà họ phải phục vụ.
Hãy đặt Parnell sang một bên, vậy tất cả những người làm việc trong công ty, những người đã làm việc theo những gì được sai bảo thì sao? Trong một nền văn hóa yếu kém, các nhân viên sẽ nhìn ông chủ của mình như một đối tượng có quyền lực cao nhất. Một nhà lãnh đạo quản lý nền văn hóa yếu kém sẽ không đầu tư vào các chương trình để xây dựng cho nhân viên sự tự tin để có thể làm những điều đúng đắn. Thay vào đó, sự ra lệnh và kiểm soát sẽ tạo ra một hệ thống mà nhân viên sẽ chỉ làm những điều có lợi cho họ. Sự cô lập, mưu mô, xảo quyệt sẽ phát triển mạnh mẽ trong nền văn hóa ra lệnh và kiểm soát, vận hành chống lại khái niệm Vòng tròn an toàn, gia tăng căng thẳng và gây cản trở cho việc hình thành các mối quan hệ tới mức mọi người chỉ tập trung vào việc bảo toàn cho bản thân.
Trong quá trình nghiên cứu cuốn sách này, tôi đã có cuộc tranh luận với một nhân viên ngân hàng đầu tư trong một bữa ăn tối. Bằng những hiểu biết của mình, tôi đã dồn ép anh ta khi nhắc đến những trách nhiệm mà anh phải chịu với những người bị tác động bởi quyết định của anh ta. Tôi đã rất choáng váng khi anh ta nói giống hệt những người tình nguyện viên trong thí nghiệm của Milgram1. “Tôi không có thẩm quyền để đưa ra những quyết định như vậy”, anh ta nói với tôi, “Đó không phải là công việc của tôi. Công việc của tôi là tìm những giá trị tốt nhất cho khách hàng của mình”. Khi chúng ta cảm thấy không an toàn trong môi trường làm việc, bản năng sẽ chỉ dẫn và định hướng cho chúng ta bảo vệ chính mình bằng mọi giá, thay vì chia sẻ trách nhiệm cho những hành động của chúng ta.
1 Stanley Milgram: Nhà tâm lý học thuộc trường Đại học Yale, đã thực hiện các thí nghiệm với những tình nguyện viên. Mục tiêu của Milgram là tạo ra phép thử để xem sự tuân theo của chúng ta với quyền thế.
Đối mặt với thực tế về những gì ngành ngân hàng đã làm cho nước Mỹ, một số ngân hàng chỉ cố gắng đổ lỗi cho các công ty thế chấp. Giống như những tình nguyện viên trong thí nghiệm của Milgram cố gắng để phủ nhận bất cứ vai trò gì trong việc mang đến nguy hiểm cho người khác, thậm chí là bằng cách đổ lỗi cho học sinh, một số ngân hàng cũng đổ lỗi cho các chủ sở hữu nhà ở Mỹ vì những rắc rối của họ. Jamie Dimon, giám đốc điều hành của JPMorgan Chase, nói với các cổ đông của ông năm 2010: “Chúng ta sẽ không trục xuất những người mà họ xứng đáng được ở trong ngôi nhà của chính mình”.
TRÁCH NHIỆM CỦA DOANH NGHIỆP
“Trách nhiệm của doanh nghiệp chỉ có một và duy nhất, đó là trách nhiệm xã hội”, Milton Friedman1 nói vào thời điểm năm 1970, sáu năm trước khi ông giành được giải Nobel Kinh tế, “sử dụng nguồn lực của mình và tham gia vào các hoạt động nhằm gia tăng lợi nhuận, miễn là nó nằm trong các quy tắc của cuộc chơi”. Khi nhắc đến từ “quy tắc” ở đây, tôi tin là Milton Friedman đang đề cập đến pháp luật. Đó là một ý tốt nhưng chưa phải là chỉ dẫn hoàn hảo lấp đầy những lỗ hổng chính trị vô tình được những người có ý định tốt hoặc đôi khi là những người làm chính trị tạo ra.
1 Milton Friedman (1912 - 2006): Nhà kinh tế học người Mỹ đoạt giải Nobel. Ông có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, kinh tế học vi mô, lịch sử kinh tế và thống kê.
Lời nói của Friedman dường như đã trở thành tiêu chuẩn cho chủ nghĩa tư bản Mỹ ngày nay. Ngày càng nhiều công ty chứng minh sự ưu tiên tôn trọng luật pháp trong mục tiêu định hướng lợi nhuận hơn bất kỳ trách nhiệm đạo đức nào với những người họ phục vụ, nền kinh tế hay đất nước mà họ đang hoạt động. Biến đổi từ cuộc thí nghiệm của Milgram, nhiều nhà lãnh đạo của các công ty thích tuân theo những nhà khoa học thay vì thẩm quyền đạo đức cao hơn. Họ có thể biện minh cho hành động của mình phù hợp với pháp luật, trong khi lại làm ngơ mục đích của pháp luật mà họ cố gắng duy trì.
Công ty Apple đã xoay xở để tránh nộp hàng chục tỷ đô la tiền thuế bằng cách thành lập các công ty con ở Ireland, nơi các công ty bị đánh thuế dựa trên nơi chúng được thành lập (Apple được thành lập tại Mỹ). Ngược lại, luật thuế của nước Mỹ lại tính thuế của các công ty dựa trên địa điểm kiếm tiền và giữ tiền (Apple đang giữ tất cả tiền kiếm được tại châu Á và châu Âu tại Ireland). Sự khác biệt này cho phép Apple nằm vào giữa khe hở luật pháp của hai nước, vì vậy, từ năm 2009 đến 2012, Apple đã trốn được 74 tỷ đô la tiền thuế phải nộp cho Sở thuế vụ IRS hay bất kỳ một cơ quan thuế nào khác. Đó là sự thực mà Apple không hề chối bỏ. Là một trong những công ty sáng tạo tuyệt vời trong xã hội của chúng ta ngày nay, kỹ xảo tiên phong của Apple trong việc chuyển lợi nhuận qua các công ty con ở Ireland và Hà Lan đến vùng Caribe để tránh nộp thuế ở Mỹ đã được nhiều công ty khác bắt chước. Tuy nhiên, theo suy nghĩ của Friedman, Apple đã không phá vỡ quy tắc.
Chúng ta thực sự có nhu cầu tuyệt đối để hình thành sợi dây liên kết về lòng tin. Sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào sợi dây này. Vì vậy, bộ não nguyên thủy của chúng ta thường xuyên đánh giá lời nói và hành vi của các công ty theo như cách nó đánh giá lời nói và hành vi của từng cá nhân. Theo mức độ sinh học, niềm tin là sự tin tưởng, bất kể là sự tin tưởng này hình thành với ai. Nếu ai đó nói hoặc làm một điều gì đó khiến ta có cảm giác rằng chúng ta không thể tin tưởng họ thì chúng ta sẽ giữ khoảng cách.
Timothy Cook, Giám đốc điều hành của Apple, đã nêu ra câu hỏi về trách nhiệm tại một phiên điều trần của quốc hội Mỹ về vấn đề này. “Thật không may, luật thuế của chúng ta không theo kịp thời đại kỹ thuật số”, ông nói. Liệu đó là trách nhiệm của chính phủ hay của các công ty? Liệu đây có phải là một hành động bất tuân pháp luật của Apple để buộc chính phủ phải làm tốt hơn? Apple là một công ty tốt, làm những điều đúng đắn, một công ty điển hình, nhưng do hầu hết mọi người không nhận thức được những điều đó nên khi họ nghe nói công ty Apple trốn thuế, điều này có thể ảnh hưởng đến niềm tin của chúng ta vào công ty. Nhưng có một vấn đề còn lớn hơn cả Apple. Dường như nó đã trở thành tiêu chuẩn kinh doanh ngày nay – khai thác các lỗ hổng cho đến khi các luật lệ theo kịp (và đôi khi có cả vận động hành lang để chống lại những luật lệ này).