Thất giác chi (Saṃbodhi Aṅga, cũng gọi là Thất bồ-đề phần): niệm, trạch pháp (dharmavicaya), tinh tấn, hỷ (priti), khinh an (prasrabdhi), định và xả (upekṣa).23 Những bản kinh ngắn có cùng chủ đề này được sưu tập trong Tạp A-hàm cho thấy giải thích như sau: ‘thức ăn’ đối với sự sinh khởi và sau khi sinh khởi tu tập thành tựu của các giác chi, đó là như lý (yonaśas) tác ý (manasikāra). “Khi một vị tỷ-kheo24 ở nơi vắng lặng, nhớ lại và suy nghĩ về Phật pháp (những điều mà vị ấy đã nghe), vị ấy sơ nhập vào niệm giác chi. Thế rồi vị ấy tu tập phát triển không ngừng niệm giác chi. Một vị tỷ-kheo tu tập niệm giác chi làm cho đạt đến viên mãn. Duy trì chính niệm như vậy, vị ấy dùng trí tuệ quán chiếu phân biệt, quyết trạch thắng pháp. Lúc đạt được như vậy… dùng tuệ lực, vị ấy nhập vào trạch pháp giác chi… (khi vị ấy tu tập làm cho viên mãn)… bằng tuệ lực, vị ấy khởi phát sự nỗ lực, không thối chuyển. Lúc này vị ấy khởi nhập vào tinh tấn giác chi… hành giả nhập vào tinh tấn giác chi có được niềm vui không phải sinh khởi từ các giác quan… thế rồi vị ấy khởi nhập vào hỷ giác chi… khi trong thân và tâm của hành giả có hỷ lạc thì đạt được nhẹ nhàng thư thái… thế rồi vị ấy thể nhập vào khinh an… khi trong thân có khinh an, hoan hỷ, vị ấy thích thú tập trung tâm mình… lúc này vị ấy thể nhập vào định giác chi… tâm đã định, vị ấy xả ly tất cả… lúc này vị ấy thể nhập vào xả giác chi”.
23. D II 79, III 25 trở xuống và 282, S V 63 trở xuống; bản tiếng Trung Quốc T I No. 2, 9, 10, T 99 quyển 27; MPS (Đại bát-niết-bàn kinh) (Waldschmidt) tr. 288. Bản thiếu tiếng Phạn trong Bodhyaṅgasaṃyukta Turfan 533.
24. Được dịch từ S V 67 trở xuống. Không tìm thấy trong bản tiếng Trung Quốc.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo rằng mình có thể tùy ý thể nhập vào nhiều giác chi khác nhau trong một ngày. Một vị tỷ-kheo tu tập các giác chi có thể thoát ly khỏi các phiền não lậu hoặc. Thể nhập vào các giác chi, vị ấy có thể trừ bỏ si mê và kiêu mạn, tâm được tự tại. Sau đó vị ấy dùng thất giác chi đối trị năm ‘chướng ngại’: Đây chính là như lý tác ý, sau đó tu tập phát triển và chế ngự từng phần hay từng nhóm của chướng ngại (Saṃyukta V 71 trở xuống, 84 trở xuống).
Những loại ‘thức ăn’ làm sinh khởi và nuôi dưỡng những ‘chướng ngại’ lớn mạnh như sau: Tướng (nimitta) xảo diệu (hay ‘đẹp’, śubha) là thức ăn của tâm tham dục; tướng ghê tởm (hay ‘phản cảm’, pratigha) là thức ăn của tâm sân hận; sự không hài lòng, lười biếng, mệt mỏi, tham ăn, ý chí bạc nhược là thức ăn của tâm si mê; đầu óc thiếu tỉnh táo là thức ăn của tâm kiêu ngạo; đối với các sự việc không có trí quyết định là thức ăn của tâm do dự. Đối với mỗi loại thức ăn này, nếu không như lý quán chiếu thì sẽ sinh khởi và tăng trưởng những chướng ngại tương ứng. (Saṃyukta V 103).
Những loại ‘thức ăn’ làm sinh khởi và tăng trưởng thất giác chi như sau: Niệm trú quán chiếu đối với tất cả các pháp, đó là thức ăn của chính niệm; đối với các pháp thiện hoặc bất thiện, sai hoặc đúng, thấp hèn hoặc cao quý, trắng hoặc đen, đó là thức ăn của trạch pháp giác chi; nền tảng của sự phát nguyện tu tập, nền tảng của sự xuất ly, nền tảng của lòng can đảm, là thức ăn của tinh tấn giác chi; những pháp làm sinh khởi hỷ lạc là thức ăn của hỷ giác chi; thân nhẹ nhàng, tâm thư thái, là thức ăn của khinh an giác chi; tướng của tĩnh lặng (śamatha), tướng của không tán loạn, là thức ăn của định giác chi; những pháp mang lại sự buông bỏ là thức ăn của xả giác chi. Bằng cách như lý tác ý làm cho những giác chi này sinh khởi và tu tập làm cho viên mãn công đức (S V 104 trở xuống).
Trái ngược với tất cả những điều này, một người có thể bỏ đói, tuyệt thực (anāhāra) đối với các pháp. Trong trường hợp này, chúng ta dùng phương pháp như lý tác ý bỏ đói các chướng ngại, trong khi đó những giác chi bị bỏ đói rất đơn giản, chỉ bằng cách không có phương pháp như lý tác ý đối với những thức ăn thích hợp của các giác chi. Đối với những chướng ngại, một người dùng phương pháp như lý tác ý đối với những tướng ô uế bất tịnh (hoặc ‘sự xấu ác’, aśubha) để bỏ đói tư tưởng chướng ngại ái dục; dùng tâm từ ái (maitrā) để giải phóng (vimukti) tư duy (cetas) thoát khỏi chướng ngại sân hận; dựa vào tu tập, xuất ly và can đảm để chôn vùi chướng ngại ngu si; thanh lọc tư duy, tẩy sạch do dự bằng cách như lý tác ý đối với các pháp tốt hoặc xấu, sai hoặc đúng, cao quý hoặc thấp hèn, đối lập trắng hoặc đen, để trừ bỏ chướng ngại nghi hoặc (Saṃyukta V 105 trở xuống).
Cũng còn một vấn đề đúng hoặc sai trong lúc tu tập vận dụng các giác chi này. Khi tư duy trầm trệ là lúc không thể tu tập khinh an, định và xả giác chi. Ở một phương diện khác, trạch pháp, tinh tấn và hỷ giác chi lúc này có thể được dùng để giúp tư duy phấn chấn. Sau khi tư duy được phấn chấn, lật ngược tình thế: Người tu tập cần vận dụng tu tập khinh an, định và xả giác chi, chứ không phải ba giác chi trước. Tuy nhiên, niệm giác chi luôn luôn phải được vận dụng trong tiến trình tu tập (Saṃyukta V 112 trở xuống).
Để giải trừ những chướng ngại, có một phương pháp thực hành được đưa ra để đối trị như đã giới thiệu ở chương trước, làm lan tỏa khắp bốn phương với tư tưởng sung mãn tâm từ, bi, hỷ và xả, biến khắp mọi nơi, thông qua sự quán sát tất cả chúng sinh cũng như chính mình, làm cho tư tưởng nạp đầy tâm từ, bi, hỷ và xả, rộng khắp, cao vợi, không thể đo lường, không sân hận, không bạo lực, như vậy lan tỏa khắp vũ trụ. Điều này có nghĩa là ‘dùng tâm từ giải phóng tư duy’ như đã được đề cập ở trên, thêm vào đó ‘dùng tâm bi (karuṇā) giải phóng tư duy’, ‘dùng tâm hỷ (muditā) giải phóng tư duy’, và ‘dùng tâm xả giải phóng tư duy’. Một tỷ-kheo phải tu tập niệm giác chi để bồi dưỡng từ, bi, hỷ và xả; đồng thời cũng tu tập những giác chi khác như vậy. Sau đó vị ấy muốn, có thể giữ niệm thọ với những pháp nhàm chán trong những pháp không nhàm chán, hoặc pháp không nhàm chán trong những pháp nhàm chán. Hoặc vị ấy có thể bỏ cả pháp nhàm chán và không nhàm chán, đồng thời duy trì xả ly (gỡ bỏ), niệm trú và tỉnh giác (cảnh giác) (Saṃyukta V 115 trở xuống).
Nếu vị ấy đạt được giác chi đầy tâm từ, có thể nhập vào ‘quang minh’ (śubha) hoặc ‘giải thoát’ (vimokṣa). ‘Dùng tâm từ giải thoát tư duy’ sinh khởi ‘cái đẹp’ là cảnh giới thù thắng cao nhất. Nếu giác chi đầy tâm bi, vị ấy có thể vượt lên hết thảy cảm thọ vật chất, vượt lên hết thảy cảm thọ sân hận, vượt lên hết thảy suy nghĩ đối với nhiều loại cảm thọ, rồi nhập vào Không vô biên xứ. Đây là cảnh giới thù thắng cao nhất của việc ‘dùng tâm bi giải phóng tư duy’. Nếu giác chi được làm cho đầy tâm hỷ, vị ấy có thể vượt lên Không vô biên xứ và nhập vào thức vô biên xứ, đây là cảnh giới thù thắng cao nhất của việc ‘dùng tâm hỷ giải phóng tư duy’. Nếu giác chi được làm cho đầy tâm xả, vị ấy có thể vượt lên thức vô biên xứ và nhập vào Vô sở hữu xứ, đây là cảnh giới thù thắng cao nhất của việc ‘dùng tâm xả giải phóng tư duy’ (Saṃyukta V 199 trở xuống).
Đối với vấn đề pháp nhàm chán trong những pháp không nhàm chán, điều này được giải thích rõ trong các phương pháp tu tập quán tưởng về bộ xương sau này. Tuy nhiên, bản kinh không nói tại sao điều này được giải thích như vậy, ngoại trừ để giúp cho việc dẫn đến trí tuệ và giải thoát, nhưng chúng ta có thể biết mục đích của nó từ những nguồn tư liệu khác là dùng đề mục này quán tưởng để diệt trừ cảm giác mê đắm thân thể.
Như trên đã nói, tu tập các giác chi được vận dụng trong nhiều trường hợp, thậm chí bất cứ trường hợp nào, như vậy hầu như không có vấn đề đòi hỏi thực hành tuần tự từ Niệm giác chi đến xả giác chi. Thế nhưng, thứ tự của những giác chi này không thay đổi, mà khi chúng ta nghiên cứu chủ đề này ở trước đã cho thấy rằng, Niệm giác chi thuộc về giai đoạn đầu tiên, sau đó mới đến Định giác chi rồi đến xả giác chi. Một trong số kinh được đề cập ở trên cũng có nói về những giác chi với chuỗi từ giác chi này sang giác chi khác. Do đó, đây có thể là trật tự căn bản, nhưng có thể tùy ý vận dụng. Hơn nữa, điều này cho thấy rằng một người đã giải thoát các lậu hoặc phiền não và trở thành một bậc A-la-hán (như tôn giả Xá-lợi-phất), có thể tiếp tục tu tập những pháp môn này trong suốt cuộc đời của mình với từng giác chi khác nhau. Với quan điểm như thế để quan sát những giác chi này, chúng ta đang nghiên cứu một giai đoạn của con đường đi tới gần sự giác ngộ, hoặc thậm chí cả giai đoạn sau khi chứng ngộ, chứ không phải ở giai đoạn đầu mới nỗ lực tu tập như được nói trong những chủ đề trước. Ngoài quan điểm suy đoán hoặc cách vận dụng tu tập uyển chuyển khác nhau của những giác chi này, có giác chi được giải thích tường tận trong nhiều chủ đề khác, trong đó một số chỉ nói sơ lược. Niệm giác chi là một chủ đề độc lập, đã được thảo luận kỹ ở trên. Tinh tấn giác chi cũng được mô tả khá chi tiết. Định giác chi cũng được nói tỉ mỉ với nhiều đoạn ở trên. Chúng ta có thể nói thêm ở đây về phương diện ‘thức ăn’ của những giác chi đối với Định giác chi trong thuật ngữ ‘an tịnh’, mà nó trở thành một khái niệm mấu chốt với nhiều thảo luận trong các trường phái Phật giáo sau này.
Trong mô tả về ‘trạch pháp giác chi’, chúng ta đã hơn một lần gặp từ pháp (dharma) trong nghĩa ‘nguyên tắc’. Đặc biệt, chúng ta đã gặp nó trong giáo lý Tứ niệm xứ, ở đây ‘các pháp’ được quán sát bao gồm cả Năm chướng ngại, Ngũ uẩn, Mười hai xứ (lục căn và lục trần) và thất giác chi. Trong chủ đề tứ chính cần, chúng ta thấy một số pháp chí ít có thể được phân chia thành ‘thiện’ hoặc ‘ác’. Ngũ căn là những cơ quan của thân thể đồng nghĩa với những giác quan, có thể suy luận căn cùng nghĩa với pháp (rõ ràng chúng được các trường phái Phật giáo giải thích như thế). Những pháp khác được đề cập ở trên mà các trường phái Phật giáo nói chung xem đó là những pháp, bao gồm ‘tầm’, ‘tứ’, ‘lạc’, ‘khổ’, ‘vui’, ‘buồn’ (liên quan đến thiền định; ‘hỷ’ và ‘khinh an’ là những giác chi, đương nhiên là các pháp), ngoài ra còn có Ngũ lực, ‘chú tâm’, ‘tịnh lự’, ‘từ’, ‘bi’ và hỷ. Đồng thời còn có nhiều pháp khác (ví dụ như bát chính đạo và tứ đại ([đất, nước, lửa và gió); tứ đại được chia thành nhóm ‘vật chất’ thuộc sắc uẩn được xếp đầu tiên]). Pháp là gì? Thực sự từ dharma trong tiếng Phạn có hai nghĩa khác nhau, đó là ‘nguyên tắc’ và ‘học thuyết’, chúng có khả năng dễ nhầm lẫn trong một số nội dung (bao gồm cả pháp đang nói là ‘trạch pháp’), và trở thành chủ đề gây tranh cãi trong một số học giả hiện đại đối với Phật giáo, nếu có nghĩa như thế, thì ý nghĩa đó là gì?
Nghĩa căn bản và nguyên gốc của từ pháp (dharma) là bản tính tự nhiên, duy trì biểu hiện sự vật tồn tại chân thật trong vũ trụ, thực tại chân thật hoặc sự vật thật sự như vậy. Do đó, con số liệt kê về pháp (số nhiều) sẽ là một danh mục sự vật có trong vũ trụ, những thực thể tạo thành nó, nó có thể biến thành những nguyên tố chân thật của nó, hoặc ngược lại hóa thành những tổ hợp liên kết không thật của những nguyên tố hoặc hiện tượng biểu hiện huyễn hoặc không thật. Ở cuốn sách này, chúng ta dùng từ pháp (dharma) với nghĩa của những sự kiện, có thể hiểu là ‘nguyên tắc tự nhiên’, ‘tính chất căn bản’, ‘nguyên tố tự nhiên’, là những điều kiện không thể tối giản cấu thành vũ trụ này và tất cả kinh nghiệm. Mặt khác, triết lý đó cho thấy chân tướng của vũ trụ và bản chất khổ đau của con người, là một học thuyết bản nhiên, bản chất như nó là, một học thuyết chân thật, một học thuyết chân chính. Ở nghĩa này, chúng ta phải mượn đến từ pháp = giáo lý của đức Phật, là ‘chân lý’ của Ngài. Tuy nhiên, thuật ngữ pháp (dharma) ở nghĩa này về mặt học thuyết được áp dụng cho tất cả học thuyết hiện hành, bao gồm tất cả quan niệm trái ngược của những tà sư ngoại đạo sử dụng. Vì vậy cho nên, chúng ta không thể dùng nghĩa ‘chân lý’ ở đây và phải dùng một thuật ngữ trung dung như ‘học thuyết’ để diễn đạt một nghĩa biến hóa hoặc khác đi. Đối diện với ‘tính đa nghĩa’ của từ dharma, vì thế ở quyển sách này chúng ta đơn giản đem nó liên hệ với cặp từ đồng âm dị nghĩa trong ngôn ngữ gốc và theo sự phiên dịch khác nhau (hy vọng đúng với mỗi tình huống).25 Hiện tại, nghĩa biến hóa của từ pháp tạm không đề cập đến.
25. Ở phương Tây, chúng ta cảm ơn hai vị nhân sĩ trí thức có những trước tác giải thích giúp chúng ta hiểu về thuật ngữ pháp (dharma), đó là Rosenberg và Stcherbatsky. Tác phẩm CC (Khái niệm trọng tâm của Phật giáo) của vị sau là một tác phẩm giới thiệu rất tốt về chủ đề này, còn nguyên tác của Rosenberg rất đáng giá để đọc. Ông ta đã nghiên cứu chủ đề này ở Nhật Bản. Hiện tại chúng ta xem Dharmas and Data (Các pháp và dữ kiện), từ tác phẩm này chúng ta truy nguyên ý nghĩa của nó từ ‘sự duy trì’ cho đến ‘nguyên tắc’.
Đoạn văn trên đã nói đến ‘trạch pháp giác chi’ là phương pháp tư duy như lý đối với các pháp, phân biệt chúng ‘thiện’ hay ‘ác’. Cũng đã nói đến sự phân biệt chọn lựa này cần nhờ vào tuệ căn để ‘thâm nhập lý giải’. Thực tế, giác chi này đồng nghĩa với trí tuệ, và các trường phái đều giải thích như vậy.
Xả giác chi đã đề cập ở phần Định căn. Trong tứ thiền định, xả là một pháp xuất hiện trong Sơ thiền và Nhị thiền, nhưng được siêu việt lúc nhập vào tam thiền, ở đó xả được thay thế bởi khinh an. Những kinh văn ở đây nói rất chi tiết về giác chi này, là sự hỷ lạc không phải từ các giác quan và giác chi này được mô tả tồn tại cùng với những pháp khác. Rõ ràng, giác chi này sinh khởi hỷ lạc với những pháp trong khi tu tập, một trạng thái hưng phấn (đôi lúc được dịch như vậy) ở giai đoạn mới bắt đầu tu tập thiền định đối với tứ chính cần. Một khi đã vứt bỏ vui thú thế tục để hướng đến chính đạo, người tu tập hoan hỷ hứng thú với những phương pháp tu tập thực hành, đó là một điều tất yếu.
Chắc chắn sự hỷ lạc tinh thần sinh khởi, thì cảm giác nhẹ nhàng an tịnh ở cả trong thân lẫn trong tâm, và rõ ràng Khinh an giác chi có thể thúc đẩy hỗ trợ cho Định giác chi. Trong đoạn văn chuyển ngữ ở chương trước, đức Phật nói về thiền tập trước lúc thành đạo như thế nào, miêu tả Ngài đã dũng mãnh tinh tấn, chuyên tâm niệm trú, an tịnh thân thể và tập trung tâm của Ngài. Ở đây chữ ‘an tịnh’ xuất phát từ động từ gốc trong tiếng Phạn là ‘khinh an’. Như vậy đoạn kinh này có thể làm bằng chứng để giải thích cho ý nghĩa của Khinh an giác chi.
Giác chi còn lại là xả. Tu tập tứ thiền định, đạt đến đây là đỉnh điểm, và trong tiến trình này, xả thay thế cho hỷ lạc. Trong chuỗi giác chi, xả một lần nữa nằm ở đỉnh điểm. Giống như hỷ, ‘thức ăn’ của nó đơn giản là dựa vào tất cả các pháp để tồn tại. Tất cả những thảo luận mà chúng ta gặp, và chúng ta sẽ gặp những điều này lúc nghiên cứu về Con đường, nói lên rằng xả là biểu hiện của cảnh giới cao nhất và cuối cùng trong tiến trình tu tập. Thông qua định mới có thể đạt đến xả. Trong trạng thái xả liên quan đến tất cả các pháp, người tu tập có thể thấy được chân lý, đạt đến giác ngộ. Đây mới chính là người tu tập chứng đắc giác ngộ như thế nào. Để thấy được tự tính của các pháp, để hiểu được thật tính của bốn sự thật cao quý, người tu tập phải xả ly hết thảy các pháp. Đây là chức năng cốt lõi của xả, một chi phần của sự giác ngộ. Ngoài ra, xả còn có ý nghĩa hơn thế: Người tu tập làm cho tư duy sung mãn tâm xả lan tỏa khắp vũ trụ, đó là những pháp cao cả nhất ‘không thể đo lường’. Xả có thể dùng hóa giải những pháp khác để giải tỏa các ‘chướng ngại’. Khi người tu tập làm cho sung mãn các giác chi với tâm xả, người đó có thể đạt đến Vô sở hữu xứ và ‘dùng tâm xả giải phóng tư duy’.