Đạo là con đường (mārga hay pratipad, đồng nghĩa với ‘sự tu tập’), gồm tám phần hoặc nghĩa đen là có tám nhánh (aṅga), thường được xưng là ‘chính’ hoặc ‘thánh’ (ārya). Thuật ngữ ārya, ở đây rất khó dịch, tuy khó nhưng không (hoặc không thể) ảnh hưởng đến thực chất của giáo nghĩa. Nghĩa gốc của từ ārya là người Aryan, nghĩa này vẫn tồn tại cho đến thời của đức Phật và sau thời của đức Phật (danh từ riêng này lúc bấy giờ chỉ cho vùng Āryāvarta ở bắc Ấn Độ, tức ‘lãnh địa của người Aryan’). Hiển nhiên, ở thời của đức Phật, thuật ngữ này đã phát sinh nhiều nhóm nghĩa khác như: Người ‘cao quý’, hoặc người ‘tôn kính’ hoặc ‘tôn giả’ (được dùng trong lời lịch sự) và những gì ‘cao quý’, hoặc ‘tốt’, hoặc ‘thiện’, hoặc ‘thù thắng’, hoặc ‘đẹp nhất’. Không nghi ngờ gì, thuật ngữ này ban đầu vốn diễn đạt lòng tự tôn của mỗi bộ tộc và mỗi quốc gia, dường như là vậy, rồi nó được dùng trong Phật giáo và đức Phật cũng sử dụng từ này. Tuy nhiên, thuật ngữ này không ảnh hưởng gì mấy đến sự truyền bá của Phật giáo về sau này đối với các bộ tộc thiểu số: Các bộ phái đều giải thích thuật ngữ này với nghĩa đơn giản là ‘cao quý’ và lược bỏ nghĩa gốc của nó.
Giống như những giác chi khác, các chi phần của Con đường không nhất thiết phải theo thứ tự để thực hành. Ngược lại, trong lúc tu tập có thể thêm hoặc bớt chi phần. Trong các trường hợp đã nói ở trước, chúng ta có thể suy luận được rằng mỗi giai đoạn khác nhau có thể vận dụng chi phần nào đó làm chủ đạo, nhưng không loại bỏ chi phần khác. Tám chi phần của Con đường chân chính là: Chính (samyak) kiến (dṛṣṭi), Chính tư duy (saṃkalpa), Chính ngữ (vāc), Chính nghiệp (karmānta), Chính mạng (ājīva), Chính tinh tấn (vyāyāma), Chính niệm (smṛti) và Chính định (samādhi).26
26. Kinh tạng (Sūtra) và Luật tạng (Vinaya) liên quan trích dẫn ở trên, phần miêu tả về giáo lý đầu tiên của đức Phật. Tường tận hơn có trong M No. 141 = bản tiếng Trung Quốc Madhyama (trung a-hàm) No. 31; SV 1 trở xuống có một vài phần trong Saṃyukta (Tạp A-hàm) quyển 28.
Danh mục được đề cập trong tập sách này dựa vào nguồn có trong kinh Thánh đế phân biệt (Satyavibhaṅga sūtra) thuộc Trung A-hàm (Madhyama sūtra), nói về bốn sự thật cao quý và đưa ra những giải thích như sau: Chính kiến là sự hiểu biết (jñāna) về bốn sự thật cao quý. Chính tư duy nghĩa là suy nghĩ của người xuất gia rời bỏ thế tục (naiṣkramya), không sân hận (avyāpāda) và không hại (avihiṃsā). Chính ngữ nghĩa là từ bỏ lời nói sai sự thật, lời nói cay độc, lời nói cục cằn, tầm phào và vô nghĩa. Chính nghiệp nghĩa là tránh xa sát sinh, trộm cắp và dâm dục. Chính mạng là làm việc kiếm sống chân chính. Chính tinh tấn là tu tập Tứ chính cần (như chủ đề đã nói ở trên). Chính niệm là tu tập Tứ niệm xứ như đã nói ở trên. Chính định là tu tập bốn cảnh giới thiền, như đã nói ở phần Định căn.
Trong kinh này cũng có giải thích về bốn sự thật cao quý, tiện thể chúng ta có thể thảo luận ở chủ đề này. Sẽ có giải thích chi tiết ở chi phần Chính tinh tấn, Chính niệm và Chính định. Những chi phần còn lại liên quan đến giới luật (śīla), đây là chủ đề mà đức Phật thường tuyên thuyết (ví dụ trong một lần thuyết giảng như thường lệ được đề cập ở chương trước, liên quan đến giới, Định, tuệ, và con số thảo luận chi tiết được nói trong Ba tạng giáo lý) mà ở sáu chủ đề trước chưa bàn đến. Trong Tạp A-hàm cũng nói đến rất ít.
Bốn sự thật cao quý cũng được mô tả trong Thất giác chi: (1) khổ; (2) nguyên nhân của khổ; (3) sự diệt khổ; và (4) con đường đưa đến sự diệt khổ. Bởi vì chủ đề hiện tại bát chính đạo cũng là sự thảo luận về sự thật thứ tư, đưa đến một vòng tròn: Chi phần thứ nhất của Con đường (Chính kiến) là hiểu biết về bốn sự thật, trong đó sự thật thứ tư là Con đường (Đạo đế). Điều này cho thấy rõ rằng bốn sự thật là nền tảng cơ bản nhất, các sự thật chính là chi phần thứ nhất của Con đường, đồng thời Con đường chính là sự thật tối hậu. Đây là khoa học của Phật giáo, bắt đầu bằng sự hiểu biết về khổ, rồi thông qua sự tu tập của niệm trú và thiền định để đạt đến giác ngộ. Nhưng giác ngộ chính là ‘sự khám phá’, hoặc ít nhất cũng là ‘sự hiểu biết đúng đắn’ về các sự thật. Rõ ràng sự tiến bộ khác biệt của điều này là khi một người xem đức Phật và giáo lý của Ngài là thầy, thì vị đó đang bắt đầu được nghe nói về các sự thật cần phải biết này. Liệu vị ấy lập tức hiểu các sự thật này hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm cá nhân của mình hay chăng? Con đường này có dụng ý là để chuẩn bị cho người tu tập đạt đến sự hiểu biết hoàn toàn, sau khi trải qua một quá trình bền bỉ lâu dài với nhiều công phu tu tập hạnh xả ly và chính niệm, với nhiều thiền tập và trau dồi tuệ căn. Ban đầu thu nhận được một mẩu thông tin chứ không phải hiểu biết hoàn toàn, cho đến khi người tu tập tự mình thấy được sự thật của nó, thông qua kinh nghiệm của chính mình. Vị ấy không chỉ đơn thuần tin điều đó, vị ấy còn phải nghiệm chứng điều đó. Có một đoạn kinh xuất hiện nhiều nơi trong Ba tạng giáo lý,27 giải thích ý nghĩa của việc tu tập tín căn đối với Phật, Pháp và tăng (xem thảo luận phần Tín căn). Công thức lời dạy này là: ‘giáo lý do đấng Đạo sư nói ra, giáo lý ấy có thể chứng kiến (sāṃdṛṣṭika), siêu việt thời gian (akālika), đến có thể thấy (aihipaśyika), dẫn đến kết quả (aupanayika). Các thiện tri thức (vijñu) tự mình (pratyātmam) chứng nghiệm (tìm thấy được, biết được, khám phá được: Vedayitavya)’. Có thể ban đầu một người chỉ có niềm tin vào Phật pháp, nhưng vị ấy chưa thể chứng ngộ cho đến khi điều này được thay thế bằng sự thể nghiệm trực tiếp chân lý lần đầu, bằng sự hiểu biết được ứng dụng trong tu tập đối với sự quán sát trong quá khứ và hiện tại của chính vị ấy.
27. Thượng tọa bộ liên quan trích dẫn ehipassiko, có trong PTC I tr. 436. Mahāvastu III 200, Śikṣāmuccaya 323.
Kinh Tứ đế phân biệt (Satyavibhaṅga Sūtra) nói rõ bốn sự thật cao quý như sau: (1) Sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, muốn không được, đều là khổ (duḥkha). Tóm lại, tổ hợp ngũ uẩn tạo thành khổ. Những hạng mục này được giải thích rộng hơn nữa, nhưng chừng đó cũng đã đủ rõ. ‘Sinh’ tức luân hồi tái sinh. (2) Nguồn gốc (samudaya) của khổ là ái dục (ṭṛṣṇā), do nó mà có luân hồi tái sinh. Đây là loại dục vọng chứa đầy vui thú và thèm muốn, do tiếp xúc mà sinh luyến ái. Nó là một loại dục vọng hưởng thụ, dục vọng sinh tồn, dục vọng không sinh tồn (theo giải thích của thượng tọa bộ là sự đoạn diệt). (3) Diệt khổ (nirodha) là hoàn toàn trừ bỏ thèm muốn, từ bỏ, vứt bỏ, thoát ly, không còn trói buộc đối với các dục vọng như thế. (4) Đạo là con đường có tám chi phần, như đã nói ở trên.
Vì vậy, chúng ta cần phải xác nhận khổ trong chính kinh nghiệm của bản thân, hiểu được bản tính chân thật của nó, là những gì không thỏa mãn trong đời sống; cuối cùng nó là tất cả các pháp (bao gồm trong ngũ uẩn trói buộc). Sự tham muốn đối với tất cả các đối tượng sẽ sinh ra khổ, trói buộc trong các đối tượng đó. Tại sao như vậy? Câu trả lời đã được nói ở chương trước, trong bài pháp đầu tiên của đức Phật, rằng chúng đều ‘vô ngã’. Mỗi tập hợp của ngũ uẩn là vô ngã, không có sở hữu của ngã, bởi vì ta không thể làm chủ được nó (nếu ta có thể làm chủ được nó thì tại sao ta lại không thỏa mãn hay khổ). Mỗi tập hợp của uẩn là vô thường, luôn biến đổi và một lần nữa điều này nghĩa là khổ (thậm chí những thứ đẹp đẽ đều nhanh chóng tàn phai). Nhận thấy các tổ hợp của ngũ uẩn đều ‘không có ngã sở hữu’, vô thường, ta phải tự tại với chúng và không còn tham muốn.
Đối với nguyên nhân của khổ, có rất nhiều kinh điển giải thích chi tiết về tham dục dẫn đến sự tái sinh như thế nào, toàn bộ tiến trình luân hồi theo Phật giáo hiểu về nó như thế nào. Đó là giáo lý nhân duyên hay duyên khởi, sẽ được thảo luận ở chương sau. Liên quan đến giáo lý này, chúng ta giải quyết một số vấn đề liên đới quan trọng, bao gồm sự chính xác khi nói về ‘vô ngã’.
Sự diệt trừ khổ có nghĩa là bẻ gãy mắt xích tiến trình nhân quả: Diệt trừ nhân (dục vọng) thì quả (khổ) sẽ hiện hữu sự dừng nghỉ (diệt). Do đó, sự thật thứ ba là khả tính tịch diệt (nirvāṇa).
trí hiểu biết này tạo thành nguyên lý của Con đường, đó là chi phần đầu tiên trong tám chi phần của bát chính đạo. Ngược lại với điều này, trong Tạp A-hàm chỉ ra trong bài kinh đầu tiên, mô tả về Con đường tu tập, do ‘vô minh’ (avidyā) mà sinh khởi tà kiến (mithyā), tư duy bất chính, lời nói sai quấy: Có tám điều sai trái ngược lại với tám chân chính của Con đường. Hiện tại chúng ta quan sát Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp và Chính mạng, là những nguyên tắc mà chúng ta phải nói rằng hoàn toàn mang lại phúc lạc, lợi ích và hạnh phúc cho nhân loại do đức Phật thuyết ra.
Chi phần thứ hai là Chính tư duy, trong một kinh khác thuộc Trung A-hàm,28 chi phần này cùng với Chính kiến được sắp xếp vào ‘tuệ học’. Kinh này chia các chi phần của Con đường thành ba phần: giới, Định và tuệ (sự sắp xếp này không giống với thứ tự thông thường khi nói về bát chính đạo). Tư duy xuất thế rõ ràng thuộc về phần ‘trí tuệ’, là cốt lõi đối với sự tu tập của Con đường. Đồng thời, tư duy không sát sinh và không làm hại hầu như đưa chúng ta tiến vào lĩnh vực của ‘giới học’. Như thế, Chính tư duy được xem là bước chuyển tiếp giữa tuệ và giới. Mỗi phương diện trong giáo lý của đức Phật đều tương quan dung nhiếp lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể hữu cơ thống nhất, do vậy hiểu hoàn toàn mỗi bộ phận cũng cần phải hiểu đến toàn bộ, tất cả các bộ phận khác. Bởi vì sự biểu hiện của thứ tự này, giới - Định - tuệ, có nghĩa rằng sự giảng dạy tiêu chuẩn thông thường của đức Phật trên bước đường vân du hoằng hóa được tổng kết trong Đại bát Niết bàn kinh. Chẳng hạn như trong những lần thuyết giảng cho hàng Phật tử tại gia, đức Phật khuyên người mới bắt đầu tu tập đơn thuần là giữ gìn giới luật và sau đó Ngài mới nói về sự tu tập thiền và quán dẫn đến trí tuệ, hoặc người tu tập bắt đầu phải học giáo lý, nâng cao hiểu biết, điều này cho thấy lợi ích và tính thiết yếu của việc tu tập hành trì giới luật, là điều kiện tiên quyết đối với định tâm, sau đó mới tiến hành công phu thiền định.
28. M 1 No. 44 (tr. 301) = bản tiếng Trung Quốc T 26 No. 210.
Ba chi phần tiếp theo của Con đường thuộc về bộ phận giới luật. Trong lời nói và hành động của người tu tập phải chân thật và không ác hại. Nghề nghiệp kiếm sống phải thể hiện sự vô hại, có thể suy luận ra sự vô hại chính là tránh xa việc làm phương hại đến người khác, kể cả gián tiếp, đó là nghề nghiệp chân chính, cũng là tránh xa trực tiếp làm hại người khác. Điều này ảnh hưởng đến đời sống của cả tỷ-kheo xuất gia cũng như cư sĩ tại gia, bởi vì cho dù người xuất gia sống nhờ vào khất thực nhưng vẫn thường liên quan đến xã hội thế tục, họ dạy giáo lý cho mọi người nhưng cũng xin ăn từ mọi người, điều này cẩn thận nếu không dễ bị lạm dụng để mưu cầu tài lợi. Chúng ta sẽ quan sát những lời dạy của đức Phật cho hàng cư sĩ tại gia đối với xã hội thế tục ở chương sau. Đối với một vị tỷ-kheo, giới luật cho dù không phải là việc dễ làm, nhưng cũng rõ ràng thẳng thắn. Tiêu chuẩn hình thành nên cơ sở triết học đạo đức của đức Phật rất đơn giản là không chấp trước. Không chấp trước đối với các pháp của thế gian, tức là tránh xa các chướng ngại để giải thoát sự trói buộc tinh thần đối với thế gian, căn bản nhất là tham và sân hay ‘tham dục’ và ‘ác tâm’. Tiêu chuẩn đạo đức này bao gồm tất cả những tiểu tiết có thể để tránh xa hành vi xấu ác.
Nhưng sau khi nghiên cứu các chi phần giác ngộ, chúng ta sẽ không quên rằng giới luật đối với một vị tu sĩ Phật giáo vừa mang tính tích cực và tiêu cực. Để vượt qua được các chướng ngại, một người tu tập phải dùng đến ba sức mạnh tích cực của đạo đức: từ, bi và hỷ. Trong thiền định của mình, vị ấy phải cố tìm cho được ba sức mạnh này để lan tỏa khắp vũ trụ, và với hạnh nguyện hoằng hóa độ sinh của vị ấy làm cho ba sức mạnh này lan tỏa vào xã hội. Nền tảng của những sức mạnh này là tiêu chuẩn đạo đức thứ hai: xem tất cả chúng sinh như chính mình (sarvātmatā). Người tu tập dùng tâm từ và tâm bi đến với người khác, mong muốn người khác được vui vẻ khi gặp được vận may, đó là niềm vui của người tu tập. Đây là một tiêu chuẩn xã hội, thương tưởng thế gian, thông qua sự chỉ đạo của Thất giác chi, cả hai kết hợp để đối trị chướng ngại, điều phục hết thảy các pháp xấu ác.
Nguồn tài liệu nghiên cứu của chúng ta còn có nhiều điểm quan trọng hơn nữa trong chủ đề bát chính đạo. Những kinh điển được kết tập trong Tạp A-hàm có một đoạn đối thoại29 mà tôn giả Ānanda thưa với đức Phật rằng, một nửa của ‘đời sống tốt đẹp nhất’ (phạm hạnh) là tình bạn tốt (kalyāṇamitratā), đồng nghiệp tốt (kalyāṇasahāyatā), liên quan đến việc tốt (kalyāṇsaṃparka). Đức Phật đưa ra một nghĩa khác: ‘Này Ānanda, không phải như vậy! Không! Đó là toàn bộ của đời sống tốt đẹp nhất, với tình bạn tốt, đồng nghiệp tốt, liên quan đến những việc tốt! Một vị tỷ-kheo có một người bạn tốt, một đồng nghiệp tốt, liên quan đến việc tốt, có thể hy vọng rằng cùng với vị ấy tu tập tiến bộ trên con đường bát chính đạo và chứng đắc con đường này…’. Trên con đường tu tập, giúp cho một vị tỷ-kheo tiến bộ, điều cần thiết nhất là sự hướng dẫn và khuyến khích của một người bạn tốt, cũng như Tăng-già cao quý là được tất cả những ‘người bạn tốt nhất’ và được đức thế tôn khuyến khích.
29. Một văn bản tiếng Phạn hiện còn trong truyền thống Nhất thiết hữu bộ, đó là tác phẩm Avadānaśataka (Soạn tập bách duyên kinh), Vol. I, tr. 240.