Chúng ta đã hiểu rằng thức không thể tồn tại mà tách rời khỏi danh sắc, vốn là thức của năm giác quan hay ‘tâm’, ‘được nuôi dưỡng’ bằng cảm thọ thông qua danh sắc (hiểu đầy đủ thức là gì thì có thể hiểu đầy đủ danh sắc là gì), cái gọi là ‘thức ăn của thức’ rõ ràng là chính bản thân của thức, là điều kiện cho sự tái sinh trong tương lai, và nó vô thường, chuyển biến, nên không thể là một linh hồn vĩnh hằng. Sau khi bác bỏ những thuyết về linh hồn, kinh Đại duyên sinh quay lại vấn đề của thức.
“Này Ānanda, thức có bảy cõi (sthiti) và hai xứ. Bảy cõi đó là gì? Cõi thứ nhất, ở đó những chúng sinh có thân khác nhau và tưởng khác nhau, đó là chúng sinh loài người, một số loài trời, và một số thuộc loài có tinh thần khổ đau (theo thượng tọa bộ, thế giới loài có tinh thần khổ đau tức là chúng sinh ở cõi súc sinh, quỷ, hoặc ở địa ngục). Cõi thứ hai, ở đó những chúng sinh có thân khác nhau nhưng có tưởng đồng nhất (giống nhau), đó là chư thiên tùy tùng của Phạm thiên (có thân thể giống Phạm thiên), được sinh ra đầu tiên (Sớ giải gọi là Sơ thiền). Cõi thứ ba, ở đó chúng sinh có thân giống nhau nhưng tưởng khác nhau, là chư thiên ở thế giới ánh sáng. Cõi thứ tư, ở đó chúng sinh có thân giống nhau, tưởng giống nhau, là chư thiên cõi Diệu trang nghiêm hay ‘đẹp đẽ’ (sớ giải nói họ hưởng thụ hạnh phúc cao nhất và không lo buồn, nhưng chỉ tạm thời, không mãi mãi). Cõi thứ năm, ở đó chúng sinh do giải thoát hết mọi tưởng sắc giới, tưởng của ‘sự chướng ngại’ (pratigha) đã diệt trừ, và không có tưởng của sự phân biệt, nhập vào Không vô biên xứ, chỉ nghĩ ‘hư không là vô biên’. Cõi thứ sáu, ở đó chúng sinh đã hoàn toàn ra khỏi Không vô biên xứ và nhập vào thức vô biên xứ, chỉ nghĩ ‘thức là vô biên’. Cõi thứ bảy, ở đó chúng sinh hoàn toàn ra khỏi thức vô biên xứ, và nhập vào Vô sở hữu xứ, chỉ nghĩ ‘không có gì tồn tại’. (Tất cả những cõi này có thể đạt được bằng thiền định, ba cõi sau dường như chỉ ở trong thiền định mới có, không có cư dân hay ‘chư thiên’ riêng biệt nào. Chúng ta có điều để lưu ý rằng phạm vi thức của chúng sinh ở thế giới loài người trong thiền định hơn hẳn lĩnh vực của chư thiên; tất cả chư thiên bao gồm cả Phạm thiên, chiếm một vị trí thấp trong vũ trụ, chỉ hơn loài người một chút, và ở một số mặt nào đó còn thua loài người)”.
“(Hai xứ thì siêu việt ý thức nhưng vẫn là một bộ phận luân hồi của vũ trụ), thứ nhất là chúng sinh ở cõi phi tưởng và thứ hai là chúng sinh cõi phi tưởng phi phi tưởng)”.
“Ta nên biết về chín cõi này… nguyên nhân sinh khởi của nó, sự hủy diệt của nó, sự hưởng thụ của nó (‘nếm trải’), sự nguy hại của nó, và sự giải thoát của nó (tức giải thoát khỏi nó). Tuy nhiên, khởi lên yêu thích bất cứ cõi nào trong chúng đều là không đúng… hiểu rành mạch chúng (liễu tri) và sự sinh khởi của chúng..., một vị tỷ-kheo liễu tri tự tính chân thật của chúng, vị ấy không còn giữ, không còn nắm (anupādā, ở hình thức trạng từ, tức ‘người đó không còn chấp trước’). Này Ānanda, một vị tỷ-kheo như thế gọi là được giải thoát bằng hiểu biết (trí giải thoát)”.
Nhân đây chúng ta xem lại lần nữa đoạn chú giải trên trong Tạp A-hàm.34 “Nếu một chúng sinh ước muốn, quyết định, có khuynh hướng thực hiện (anu-śī, có xu hướng tiềm tàng, là kết quả từ kinh nghiệm trong quá khứ), chúng là chỗ cấp dưỡng (ālambana) cho thức nương náu. Khi có nơi cấp dưỡng, thì thức liền có nơi nương gá (pratiṣṭhā); khi thức đã bám vào đó thì dần lớn mạnh, đó là sản phẩm của sự tái sinh trong tương lai… (và kết quả sinh khởi khổ đau…)”. Cho dù chỉ còn lại một chút khuynh hướng, nó sẽ cung cấp một nơi cấp dưỡng, mang lại một kết quả tương tự; nhưng nếu một chúng sinh không mong muốn, cũng không quyết định, cũng không có khuynh hướng thực hiện gì, sẽ không cung cấp nơi nương gá (cảnh sở duyên) cho thức, cũng không có nơi bám víu và kết quả không có sản phẩm của sự tái sinh và khổ đau trong tương lai.
34. S II 65 trở xuống, T 99 quyển 14 No. 19. Xem bài (Objects).
Với cách như vậy, tiến trình luân hồi tiếp tục. Cho dù thức trôi chảy không ngừng trong từng nháy mắt, nhưng chỉ cần có tí khuynh hướng thì nó sẽ tạo ra nhiều động lực (hành) thực tiễn, để tiếp tục cung cấp nhiều điều kiện cho thức vận hành. Trước khi thức dừng nghỉ, nó vẫn tạo ra được một nơi cấp dưỡng, nơi nương gá, hoặc nơi bám víu cho thức hoạt động trong tương lai, một thức mới và mù mờ, từ kiếp sống này sang kiếp sống khác (cung cấp điều kiện cho sự sinh khởi tiếp tục của danh sắc), cho đến khi khuynh hướng đó chấm dứt.