Vô thường

Có nhiều trích dẫn ở trên liên quan đến pháp vô thường. Ở đoạn đối thoại đầu tiên với năm vị tỷ-kheo lúc đức Phật bắt đầu tuyên thuyết giáo lý, Ngài hỏi sắc uẩn và các tổ hợp khác là thường hay vô thường, và câu trả lời là vô thường (tr. 92 ở trên). Ở chương này nhấn mạnh rằng thức là vô thường hơn cả vật chất (sắc). Trong một bài kinh35 thuộc Tạp A-hàm của thượng tọa bộ viết rằng mỗi nhân tố của chuỗi nhân duyên là vô thường (anitya), phụ thuộc lẫn nhau (saṃskṛta), duyên sinh từ các điều kiện, pháp trôi chảy (kṣayadharma), pháp hoại diệt…

35. S II tr. 26.

Bởi vì năm uẩn là tất cả các pháp nhờ chúng mà tồn tại, rõ ràng như vậy tất cả các pháp đều vô thường. Có một bản kinh rất thú vị trong Tạp A-hàmGiáo hóa Ca-chiên-diên kinh (Kā-tyāyanāvavāda),36 nói về vấn đề này và kết nối nó với bản chất của vũ trụ tạo thành con đường lánh xa hai quan điểm cực đoan mà những nhà triết học khác đã chủ trương trước đây (xem tr. 178 và 187 ở trên).

36. S II 17, T 99 quyển 12 No. 19. Tripāṭhī tr. 167 trở xuống. Triết gia trường phái trung Quán (Madhyamaka) là Long thọ căn cứ vào kinh này đưa ra lập trường của mình (MK xV 7) và nhà sớ giải Nguyệt xứng cũng vậy (cuối thế kỷ 6 tL) cho chúng ta biết rằng có căn cứ trong Ba tạng giáo lý của tất cả các trường phái Phật giáo.

Kātyāyana (Ca-chiên-diên) hỏi đức Phật chính kiến là gì. Đức Phật giải thích: “hầu hết con người đều rời vào cặp quan điểm cực đoan, đó là có (astitā, existenceism, thường kiến) và không (nāstitā, nonexistenceism, đoạn kiến). Nếu ai liễu tri thật tính nguồn gốc sinh khởi của vũ trụ bằng sự hiểu biết chân thật, không thấy vũ trụ là không (sự mất hẳn, pháp không tồn tại). Nếu ai liễu tri thật tính sự tan rã của vũ trụ bằng sự hiểu biết chân thật, không thấy vũ trụ là có (pháp tồn tại). Hầu hết con người đều bị phiền não (tiếng Phạn: upadhi), bị ái dục trói buộc. Nay, vị ấy không dự bị (upaiti), không nắm giữ (upādatte), vọng tưởng (adhiṣṭhāti), dựa dẫm và bám víu, cố tình (adhiṣṭhāna) của sự suy tư (cetasas), chạy theo (anuśaya) sự trói buộc (abhiniveśa), không nghĩ ‘tôi có một linh hồn’, - vị ấy không còn nghi ngờ, vị ấy không gì không chắc chắn, rằng khi mọi thứ sinh khởi chỉ có khổ sinh khởi (sớ giải của thượng tọa bộ: chỉ có năm uẩn hiện khởi, ngoài ra không có chúng sinh hay linh hồn hiện khởi), rằng chỉ lúc mọi thứ bị diệt trừ thì khổ cũng mất đi. Như vậy, vị ấy đã đạt được trí tuệ, vị ấy không có cái làm nhân duyên cho cái khác sinh khởi (Chú giải nói là vị ấy trực tiếp tự mình chứng nghiệm được nó). Như thế, này Kātyāyana, đó là chính kiến”.

“Này Kātyāyana, tất cả đều có hay tồn tại (sarvamasti) là cực đoan thứ nhất. Tất cả đều không, không tồn tại (sarvamnāsti) là cực đoan thứ hai.37 Giáo lý của Như Lai tuyên thuyết không đi vào hai cực đoan này, đó là phương tiện chân chính (kinh điển tiếng Phạn gọi là con đường trung đạo): Các hành tồn tại nhờ duyên vào vô minh; thức tồn tại nhờ duyên vào các hành...; như vậy chúng ta có chuỗi Duyên khởi tạo nên đống khổ đau. Nhưng diệt trừ hoàn toàn dục vọng vô minh thì chúng ta có các hành diệt; nhờ các hành diệt mà thức diệt...; như vậy chúng ta có sự tịch diệt hoàn toàn đống khổ đau này”.

37. Hai câu này không có trong văn bản của Nhất thiết hữu bộ (như chúng ta đọc ở đây là những mâu thuẫn đầu tiên của bộ phái đó). Trích dẫn của Nguyệt xứng không có chữ sarvam (tất cả), tức ‘tồn tại’ hay đơn giản là ‘hữu’.

Kinh này là một bản kinh khó, nhưng tham chiếu một số mặt của giáo lý mà các kinh khác giải thích như đã khảo sát ở trên làm cho ý nghĩa trở nên rõ ràng. Không có pháp nào ở trên thế giới này là trường tồn hay vĩnh hằng, thậm chí các pháp do nhân duyên hợp thành cũng không thể nào bất diệt. Mặt khác, cũng không có sự vắng mặt hoàn toàn của các pháp, thậm chí sự mất đi liên tiếp từ pháp này đến pháp khác của tất cả các pháp cũng không hoàn toàn mất đi dấu tích mà chúng từng tồn tại. Bản tính chân thật của vũ trụ là bao gồm các pháp tạm thời, mà chúng mất đi để tồn tại, nhưng không thể không để lại điều kiện làm nhân duyên cho pháp tạm thời sinh khởi trong tương lai, không thể không có pháp nối tiếp. Đối với những thuộc tính tương tục chuyển biến này, cho rằng thực thể tồn tại vĩnh hằng, đó là chấp ‘có’, chúng ta có những cách nghĩ cực đoan ngược lại, đó là chấp ‘không’, cho rằng tất cả các pháp đều biến mất, không còn chút gì sót lại. Những loạt pháp chuyển biến này tạo thành khổ đau, và đó là tất cả sự tồn tại, tất cả đều sinh khởi như thế. Do đó, chỉ có bản thân của khổ đau, và không có chúng sinh hay linh hồn khổ đau. Để tránh khuynh hướng ràng buộc và chấp có, vọng chấp vào quan niệm có một linh hồn, hàm ý nói đến sự giải thoát bằng sự hiểu biết đúng đắn, dẫn đến không tham luyến chút gì đối với bảy cõi và hai xứ của thức, và không có ý muốn bám víu vào nơi cấp dưỡng cho thức nương gá.