Như vậy chúng ta hiểu sơ đồ chính về các trú xứ của thức, nhờ vào sự tháo gỡ ràng buộc, nhờ vào hiểu biết chân chính mà được giải thoát, phần kế tiếp và phần cuối của kinh Đại duyên sinh (Mahānidāna) giảng giải tường tận chủ đề giải thoát.
“Này Ānanda, có tám giải thoát (vimokṣa). Tám giải thoát đó là gì? giải thoát thứ nhất là chúng sinh (chính mình) bên trong có sắc tưởng (hoặc ở cấp độ của thức thuộc sắc giới), vị ấy quán những đối tượng sắc bên ngoài (đây là sự quán chiếu đơn thuần về đối tượng vật chất để cấu trúc tâm). Giải thoát thứ hai là bên trong có tưởng vô sắc, quán những đối tượng sắc bên ngoài. Giải thoát thứ ba là khi một người đã đạt được sự tập trung vào nhất tâm ‘đây là sự sáng đẹp’ (hoặc ‘sự đẹp đẽ trong sáng’, śubha).38 Giải thoát thứ tư là vượt qua tất cả sắc tưởng, sự tịch diệt của tưởng chướng ngại và không còn nhớ nghĩ đến tưởng tạp loạn, vị ấy nhập và trú vào định Không vô biên xứ, nghĩ rằng ‘hư không là vô biên’. Giải thoát thứ năm là hoàn toàn vượt qua Không vô biên xứ, nhập và trú vào định thức sở hữu xứ, nghĩ rằng ‘thức là vô biên’. Giải thoát thứ sáu là hoàn toàn vượt qua thức vô biên xứ, nhập và trú vào định Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng ‘không có gì tồn tại’. Giải thoát thứ bảy là hoàn toàn vượt qua Vô sở hữu xứ, nhập và trú vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Giải thoát thứ tám là hoàn toàn vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập và trú vào định diệt thọ tưởng. Này Ānanda, đây là tám giải thoát”.
38. Ở đây có thể nói giải thích rằng ‘dùng từ bi để giải thoát tâm thức’ (tr. 147 ở trên). Xem thêm Ps II 39.
“Lại nữa, này Ānanda, một vị tỷ-kheo (tu tập) đạt đến tám giải thoát này theo thuận chiều, nghịch chiều, thuận nghịch qua lại, ra khỏi và nhập vào chúng bất cứ ở đâu vị ấy muốn, bất cứ cái nào vị ấy muốn, bao lâu tùy ý, nhập và trú vào chúng sau khi chính vị ấy tự chứng và tự nghiệm sự giải thoát vô lậu của tâm (cetas), sự giải thoát bằng trí tuệ, thậm chí ngay ở trong thế giới này, nhờ vào sự diệt tận các lậu hoặc, vị ấy được gọi là một vị tỷ-kheo đã giải thoát khỏi hai phương diện (thân vật lý và thân tri giác - chú giải của thượng tọa bộ). Không có sự giải thoát nào cao hơn sự giải thoát hai phương diện này hoặc tối thắng hơn sự giải thoát hai phương diện này”.
Những kinh văn trong Tạp A-hàm có nói thêm nhiều điểm liên quan đến giải thoát được trình bày ở đây và trong nhiều đoạn đã trích dẫn ở trước. Kinh nói rằng nếu thiếu duyên của nó thì một pháp không thể tồn tại, và câu nói này đã được giải thích rất nhiều. Chúng ta đã gặp sự giải thích này hơn một lần về thuật ngữ ‘ly dục ly nhiễm, hoàn toàn (aśeṣa) tịch diệt’, cũng như những mắt xích khác, bởi vì tiêu trừ một nhân duyên thì đạt được sự giải thoát khỏi nó. Một sự giải thích xa hơn nữa được tìm thấy trong một bản kinh của Tạp A-hàm39 mô tả một vị tỷ-kheo thông qua ly dục, đoạn ly phiền não, và thông qua tịch diệt, vị ấy đã đạt được giải thoát khỏi chấp trước. Kinh văn còn mô tả thêm, rõ ràng điều đó có thể nói rằng vị ấy đã đạt đến tịch diệt (Niết bàn) ở ngay thế giới này (dṛṣṭadharma). Một bản kinh khác thuộc thượng tọa bộ40 mô tả có người đặt câu hỏi nhờ vào loại giải thoát gì mà người tu tập hiểu rằng sinh đã diệt tận và về sau không còn ở thế giới này nữa. Câu trả lời đó là nhờ vào sự giải thoát bên trong (adhyātman), nhờ vào sự diệt tận của tất cả phiền não chấp trước, vì thế về sau sẽ không còn sự lưu chuyển trôi chảy của các lậu hoặc.
39. S II 18, T 99 quyển 15 No. 1.
40. S II 53 trở xuống.
Từ phần cuối của kinh Đại duyên sinh (Mahānidāna) và từ sự khảo sát những chi phần giác ngộ ở chương trước, chúng ta thấy rằng một vị tỷ-kheo có thể đạt đến giác ngộ và Niết bàn ở ngay thế giới này, trong kiếp sống này, và rồi sống cuộc đời giải thoát, hoặc nhiều mặt giác ngộ. Vị ấy tiếp tục sống ở thế gian này, nhưng hoàn toàn không còn chấp trước vào cái gì nữa.