Những kinh điển trong Tạp A-hàm khi nói về thuyết Duyên khởi toàn bộ đều nhấn mạnh đến luận điểm này, và sự giác ngộ giải thoát là do chính vị tỷ-kheo đó trực tiếp tự chứng nghiệm. Dĩ nhiên, luận điểm này đã được thảo luận ở chương trước, đặc biệt ở chi phần Chính kiến của bát chính đạo: Các chân lý trong bốn sự thật cao quý phải được hiểu đúng theo thật tính của chúng, phải thật sự do chính mỗi người tu tập theo Con đường tự mình khám phá ra. Vị ấy trước đây chỉ nghe nói về những chân lý của bốn sự thật cao quý, bây giờ do vị ấy đã tự mình thể nghiệm nên hiểu rõ những chân lý đó. Căn cứ vào quan điểm của chương này, chúng ta đã hiểu được rằng một vị tỷ-kheo phải tự mình thể nghiệm những sự thật đó bằng sự quán chiếu chân thật về pháp Duyên khởi, sau đó mới có thể nói rằng vị ấy hiểu và thấy được chúng.
Một vị tỷ-kheo phải điều tra nghiên cứu triệt để (pariman: cố tìm cho ra) khổ đau (nhiều loại) ở thế gian này, và chúng dựa vào nhân duyên hay điều kiện nào để sinh khởi, cũng như chúng có thể bị tiêu trừ như thế nào. Với cách như vậy, vị ấy phải điều tra nghiên cứu tận gốc tất cả những chi phần của vòng Duyên khởi.41 Trong ánh sáng của trí tuệ, như vậy vị ấy có thể đạt đến trạng thái không còn chấp trước bất cứ thứ gì trên thế gian này, không còn phụ thuộc vào (abhi-sam-kṛ, nghĩa là không còn tích lũy cho mình những nhân duyên mới), không còn mong cầu (abhi-sam-cit, ý chí hay nguyện vọng của một người). Nhờ có kết quả này mà vị ấy không còn các dục vọng và như thế vị ấy tự mình (cá nhân mình) đạt đến tịch tịnh và biết rằng về sau không còn ở thế giới này nữa.
41. S II 81 trở xuống, T 99 quyển 12 No. 10. Tripāṭhī tr. 127 trở xuống.
Ngoài ra kinh này42 còn nhấn mạnh hơn nữa (cho dù không có) niềm tin (nghĩa là nghe ai đó đã nói), hoặc do cảm tình, hoặc do tuyên truyền (anuśrava), hoặc phản ảnh từ bề ngoài (ākāra, với những lý do hời hợt), hoặc chấp nhận sau khi xem xét (nidhyānakṣānti) lại ý kiến người bên cạnh, một vị tỷ-kheo chính mình vẫn tự vận dụng được hiểu biết về Duyên khởi và tịch tịnh, đó là sự hiểu biết về sự tịch diệt của sự tồn tại.
42. S II 115 trở xuống, T 99 quyển 12 No. 9. Xem thêm CIP, tr. 47.
Trong Ba tạng giáo lý thường nói nhiều lần về những bản lĩnh này của một người tu tập, là sự chứng đắc của đức Phật, của các vị tỷ-kheo, hoặc những vị Sa-môn khác. Thực chất, tất cả những điều này thành tựu hầu như đều nhờ vào công phu thiền định, bao gồm cả công năng của thần thông, là khả năng phóng tầm tư duy đến bất cứ đâu trong thế giới vật chất này, thậm chí phóng ra một ý niệm (ý sinh thân) có thể thấy được suy nghĩ của người khác. Tuy nhiên, có một bản kinh trong Tạp A-hàm43 không nói về những điều này, kể cả hai trong ‘ba thần thông’ mà đức Phật chứng đắc lúc thành đạo (nhớ lại những kiếp trước và tuệ giác thông suốt, biết được sự luân hồi của chúng sinh theo những hành vi họ gây ra), chỉ đề cập đến tuệ giải thoát (prajñāvimukta). Điều này được giải thích rằng trước hết có tuệ giác thông suốt chỗ an trú của các pháp (sthiti) và sau đó có tuệ giác thông suốt về sự tịch diệt. (tất cả các pháp, chẳng hạn như thức, dĩ nhiên nó là một trong các pháp, có ‘chỗ trú’ của chúng, tức là những nơi mà chúng an trú trong vòng Duyên khởi). Thông qua việc quán chiếu năm uẩn và tính vô thường của chúng…, và sự hiểu biết về trình tự của vòng Duyên khởi, người tu tập chứng đắc trí tuệ càng thâm sâu. Một bản kinh khác44 trực tiếp chỉ rõ trí tuệ thông suốt về chỗ trú của các pháp trong mối tương quan với vòng Duyên khởi, và trong vòng này nếu vắng mặt nhân duyên của nó thì kết quả pháp đó không tồn tại, đồng thời thấy biết về pháp có tính mất đi, pháp nhân duyên là tuệ giác tìm thấy về trú xứ hay chỗ ở của chúng.
43. S II 121 trở xuống, T 99 quyển 14 No. 5.
44. S II tr. 60, T 99 quyển 14 No. 16.