Một vị tỷ-kheo phải tự mình chứng nghiệm được tự tính chân thật của vũ trụ để đạt đến giải thoát: Phải tin vào lời dạy của đức Phật, chỉ học suông giáo lý là chưa đủ. Từ quan điểm này có thể thấy rõ có một bước nhỏ khác biệt so với thuyết Duyên khởi trong Tạp A-hàm.45 Kinh này mô tả rằng, cho dù Như Lai xuất thế hay không xuất thế (nghĩa là những bậc giác ngộ, các đức Phật tuyên thuyết lý Duyên khởi), thì mỗi pháp trong vòng nhân duyên này cũng vẫn làm điều kiện cho pháp khác sinh khởi. “thế giới này (dhatu, Sớ giải của thượng tọa bộ cho rằng điều này dựa vào nhân duyên đặc thù, như đã thảo luận tức tự tính của nhân duyên - svabhāva, chẳng hạn như sinh là nhân duyên của già và chết) được an lập (sthita), thì có một nơi an trú cho các pháp (dharmasthititā, pháp trú, thật ra là chỗ đứng, những nơi an trú cho các pháp), có vị trí của pháp (dharmaniyāmatā, pháp vị), có tính duyên sinh cụ thể (idaṃpratyayatā). Đây là điều mà Như Lai chứng ngộ… và tuyên thuyết… khai mở, phân tích, làm cho dễ hiểu; và các con hãy đến tự thấy pháp đó. Lại nữa ‘(tức là) vô minh duyên hành’: Như vậy, này các tỷ-kheo, pháp này nói ra là chân như tính (tathatā, ‘như thế’ - kinh điển Pali và Mahāvyutpatti, [Phiên dịch danh nghĩa đại tập], 1709, có từ đồng nghĩa là satyatā và yathatathā), phi hư vọng tính (avitathatā), bất dị tính (ananyathatā), nhân duyên tính, được gọi là Duyên khởi (pratītyasamutpāda)”. Cuối cùng chúng ta liên hệ đến một bản kinh46 trong bộ kinh tập này, ở đây đức Phật khen ngợi tôn giả Xá-lợi-phất đã khéo thẩm thấu (hiểu) ‘căn cứ của các pháp’ (dharmadhātu, pháp giới). Ở đây chúng ta phiên dịch thuật ngữ dhātu là base (căn cứ, giới) là gần nghĩa nhất, nhưng nguyên gốc của từ này là một căn cứ trong nghĩa của cái gì đó có chân tính uyên nguyên, một thực tại cuối cùng. Do đó, ở đây thuật ngữ dharmadhātu (pháp giới) là thật tướng của các pháp, tính chân thật của các pháp, mà Sớ giải47 của thượng tọa bộ giải thích nó là tính duyên sinh của các pháp, đặc tính lưu chuyển dựa vào nhân duyên điều kiện.
45. S II tr. 25 trở xuống, T 99 quyển 12 No. 14. Tripāṭhī tr. 148 trở xuống.
46. S II 56, T 99 quyển 14 No. 3.
47. Sāratthappakāsinī (Tạp A-hàm chú), do Piyatissa biên tập, Colombo, 1927 (hewavitarne bequets Series), Phần II, tr. 50.
Như vậy, bản tính của vũ trụ theo đức Phật dạy trong giáo lý của Ngài, được trình bày trong Ba tạng giáo lý là sự thật khách quan (something objectively real). Nó vốn sẵn ở đó để được khám phá bởi những ai có thể khám phá ra nó, và bất kỳ ai khám phá ra nó phải đưa ra cùng một sự khám phá, gọi là những sự thật về nhân duyên và điều kiện tạo thành. Những sự thật này là quy luật tự nhiên, hơn nữa là phổ biến và rõ ràng không thể cải đổi, mặc dù mọi sự vật tồn tại là vô thường, không ngừng chuyển biến. Chúng vẫn như vậy, cho dù các đức Phật có xuất hiện trong thế gian này hay không, như chúng ta đã thấy ở trước trong chương này (tr. 177), đức Phật xác nhận rằng bất cứ lúc nào những vị Sa-môn hay Bà-la-môn đã khám phá ra những nhân duyên này, thì chắc chắn chúng giống nhau.