Chúng ta đã nghiên cứu ở chương trước về kinh Phạm võng, mô tả tóm tắt ‘sự vận động’ và ‘sự tiến hóa’ của vũ trụ và hình tượng tại cung điện của Phạm thiên ở giai đoạn sau, cùng với những vị thần linh lân cận có thân giống với Phạm thiên. Ở một kinh khác trong Trường A-hàm2 cũng có nói về sự vận động và tiến hóa này, với đa số là chúng sinh ở cõi ánh sáng (dường như họ không ảnh hưởng đến sự tuần hoàn của vũ trụ vật chất), nhưng kinh này tiếp tục mô tả những chúng sinh từ cõi ánh sáng tái sinh ở ‘Thế giới của chúng ta’ như thế nào và xã hội con người diễn biến ra sao. Bản thân vũ trụ không liên quan đến thần linh, sự phân biệt giai cấp và đặc biệt là hiện tượng di truyền trong Bà-la-môn vốn được cho là tự nhiên, đó là những chủ đề chính được đức Phật đã vạch trần.
2. D No. 27 (III 84 tr. 84 trở xuống), T 1 No. 5. Cũng có trong AK Abhidharmakośā III tr.98 và Bhāṣya=Mahāvastu I tr. 388 trở xuống, Rockhill 1 trở xuống–MSV (SoR) I tr. 7 trở xuống.
Khi vũ trụ vận động, đa số chúng sinh chết ở cõi Cực quang tịnh thiên tái sinh đến thế giới này. Họ duy trì rất lâu, thân được làm bằng tâm, nuôi sống bằng niềm vui, thân phát ra ánh sáng, dạo chơi trong không gian và nhan sắc đẹp đẽ. Này các vị Vāśiṣṭhas (đức Phật đang thuyết giảng cho hai vị sa-di sinh ra trong dòng dõi Bà-la-môn), lúc bấy giờ ở đây chỉ có một khoảnh nước, tối tăm, mờ mịt (tức thế giới này). Lúc đó mặt trời và mặt trăng không rõ, không có những chòm sao, không ngày và không đêm, không tháng và không ngày, không năm và không mùa, không nam, không nữ. Chúng sinh đơn thuần là ‘chúng sinh’, không có phân biệt.
Thế rồi một thời gian lâu sau, ‘chất cứng ngon’ (tức là ‘đất’, trong nghĩa của tứ đại) xuất hiện trên khoảnh nước cho những chúng sinh đó sinh sống. Có một lớp (màng) sữa mát xuất hiện trên bề mặt của đất. Sữa có màu, thơm và vị ngon. Màu của nó giống như pho-mát và bơ. Vị của nó thuần tịnh, ngọt như mật ong rừng.
Lúc đó có một chúng sinh, tính ưa vui (lola: hiếu động), nghĩ như vầy “Ô hay, đây là gì vậy?” và dùng ngón tay quẹt nếm thử đất này. Bởi vì vui mà dùng ngón tay nếm đất ngon nên ái dục (dṛṣṇā) khởi lên. Những chúng sinh còn lại cũng với tư duy này (dṛṣti, ý niệm), dùng ngón tay quẹt nếm đất. Sau khi họ nếm xong đều thấy thích thú nên sinh khởi ái dục trong họ. Thế rồi tham muốn khởi lên, những chúng sinh này xắn từng miếng cầm lên để ăn. Bởi vì điều đó nên ánh sáng trên thân của họ mất đi.
“Sau khi thân mất đi ánh sáng, mặt trời và mặt trăng bắt đầu xuất hiện, những chòm sao cũng hiện ra, ngày và đêm thấy rõ. Khi tháng và ngày được phân biệt, do đó năm và mùa cũng được phân định. Như vậy, này các vị Vāśiṣṭhas, vũ trụ lại được luân chuyển”.
Những chúng sinh này tiếp tục lấy đất làm thức ăn qua một thời gian rất dài, và lúc đó thân của họ trở nên ‘Thô kệch’. Màu sắc và ‘sự phai màu’ cũng được phân biệt, do đó có người đẹp, người xấu. Những người đẹp xem thường người xấu, và do kết quả của sự tự cao và kiêu ngạo nên đất ngon cũng biến mất. Sau đó, mặt đất xuất hiện những nốt sần trông như nấm, chúng có vị ngon gần giống với đất ngon, và chúng sinh đó dùng làm thức ăn một thời gian dài. Lúc họ ăn thứ nấm, thân thể của họ càng trở nên thô kệch và có nhiều nhan sắc (vẻ đẹp), người đẹp càng trở nên tự hào và kiêu căng hơn cho đến khi loài nấm biến mất. Thế rồi một loại dây leo xuất hiện, cũng có vị ngon như vậy. Tiến trình tương tự tiếp tục và rồi biến mất.
“Lúc bấy giờ, này các vị Vāśiṣṭhas, khi dây leo đã biến mất, một loại lúa mọc lên cho những chúng sinh này, không cần cày cấy vẫn thu hoạch được những hạt gạo không có trấu hay vỏ, có mùi thơm và chế biến thành cơm. Nếu họ thu hoạch chúng vào buổi tối cho bữa ăn tối, thì chúng mọc lại rồi chín vào buổi sáng. Nếu họ thu hoạch vào buổi sáng cho bữa ăn sáng, thì chúng mọc lại và chín vào buổi tối. Những chúng sinh này sống bằng cơm chín mà không cần canh tác… thân của họ trở nên thô kệch, có nhan sắc và không có nhan sắc, rồi nữ tính xuất hiện trong người nữ và nam tính trong người nam. Người nữ nghĩ về người nam rất nhiều và người nam nghĩ về người nữ rất nhiều. Nghĩ về nhau rất nhiều nên luyến ái khởi lên trong tâm họ và lửa dục khởi lên trên thân thể của họ. Do duyên vào lửa dục mà họ thích thú với việc dâm dục. Khi người khác thấy họ thích thú với việc dâm dục, một số ném bùn đất, một số ném than tro, một số ném phân bò, la hét chửi mắng: “Đồ đê tiện! Đồ dơ bẩn!” “Thật ghê tởm một chúng sinh làm việc đó với một chúng sinh?” Ngày nay cũng có tập tục ở một số nước, khi rước dâu có vài người ném bùn, tro và phân bò vào cô dâu. Như vậy, họ làm theo tập tục truyền thống, phản ánh biểu hiện ở tính nguyên thủy, nhưng họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Lúc bấy giờ cho đó là việc làm xấu (adharma: liệt pháp, ác pháp hay phi pháp), ngày nay cho là việc đúng (dharma: hợp pháp, đúng luật; trong những nghĩa của chữ pháp có lẽ có nghĩa luật pháp mà trước đây chúng ta chưa gặp qua trong những khảo sát ở trước, ngoại trừ ở Chương 1 khi chúng ta liên hệ đến ‘pháp luật’ của truyền thống Bà-la-môn giáo thì có ẩn ý này). Lúc bấy giờ những người thích thú với pháp dâm dục không được phép đi vào làng xóm hay thành thị một hoặc hai tháng.
“Kể từ khi những chúng sinh này thích thú với pháp xấu xa đó, họ ở nhà làm việc đó một cách thầm kín. Thế rồi có một chúng sinh rất lười biếng, tâm nghĩ: ‘Ôi, tại sao ta phải phiền toái đến việc nhặt gạo vào buổi tối để làm bữa tối và nhặt buổi sáng để làm bữa sáng? Giả như ta nhặt gạo một lần để cho cả bữa sáng lẫn bữa tối tốt không?’ Sau đó chúng sinh này nhặt gạo một lần để làm cho hai bữa sáng và tối. Thế là một chúng sinh khác học theo anh ta và nói: ‘Anh ơi, đến đây, chúng ta cùng đi nhặt gạo’. ‘Anh ơi, đủ rồi, tôi nhặt một lần chỉ để làm bữa sáng và tối mà thôi’. Này các vị Vāśiṣṭhas, những chúng sinh khác lúc ấy theo ý tưởng của chúng sinh kia, nhặt gạo chỉ một lần mà dành cho hai bữa, suy nghĩ đó tốt quá”.
Ý tưởng này lan rộng và rồi họ nhặt đủ gạo cho cả tuần trong một lần, nhưng: ‘Do những chúng sinh này làm bồ chứa gạo và yên tâm cho việc ăn, thế là vỏ và trấu sinh khởi bao bọc lấy hạt gạo; rồi khi nó bị giành giật, nó không tự sinh sôi trở lại, từ đó việc thu hoạch được khám phá, và cây lúa mọc thành từng cụm (tức có lẽ mọc trên những cánh đồng)’. Thế rồi những chúng sinh này tụ tập lại và than vãn thân bằng ý sinh được nuôi dưỡng bằng niềm vui dần dần sa sút như trạng thái hiện tại: ‘Những pháp xấu ác đã thịnh hành trong chúng ta’. Sau đó, họ quyết định chia nhau lúa và đắp bờ ngăn lại (nói cách khác là họ phát minh ra của cải riêng tư).
Lúc này có một chúng sinh, anh ta rất tinh quái, giữ lúa của mình, lấy lúa của người khác mà chưa ai cho phép, và dùng để ăn. Người khác bắt được anh ta và nói: ‘Này anh, anh thật là tồi, anh lấy đi bao nhiêu lúa của người khác mà họ không cho, chiếm giữ riêng cho mình và đem ăn. Không được làm như vậy lần nữa nhé’. anh ra chấp nhận, nhưng đã lặp lại hành vi đó lần hai rồi lần ba. Mọi người lại vây bắt và quở trách anh ta, một số người dùng tay đánh anh ta, một số dùng đất ném anh ta, một số dùng gậy đánh anh ta. Từ đó tệ nạn không cho mà lấy, lỗi lầm, nói dối và bạo lực (hoặc hình phạt) được biết đến (‘được phân biệt, nhận thức’).
Mọi người lại tụ tập, thảo luận về những việc xấu này đã phát sinh trong họ, và đề nghị: “Có lẽ chăng chúng ta bầu ra một chúng sinh, người đó có thể la mắng chúng ta khi người đó có quyền la mắng, có thể quở trách chúng ta khi người đó có quyền quở trách, có thể trục xuất chúng ta khi người đó có quyền trục xuất? Chúng ta sẽ cung cấp cho người đó lúa gạo”.
“Này các vị Vāśiṣṭhas, lúc bấy giờ trong số đó có một người tướng mạo khôi ngô, đẹp nhất, dễ mến nhất, thông minh nhất, và họ nói với anh ta rằng: ‘Này anh, hãy đến đây. anh có thể la mắng chúng tôi khi có quyền la mắng, có thể quở trách chúng tôi khi có quyền quở trách, có thể trục xuất chúng tôi khi có quyền trục xuất. Chúng tôi sẽ cung cấp cho anh lúa gạo’. anh ta đồng ý và bắt đầu thực thi nhiệm vụ, thế rồi được nhận lúa gạo. Này các vị Vāśiṣṭhas, bởi vì anh ta được mọi người bầu ra, nên anh ta được gọi là bậc Đại tuyển cử (Great Elect). Như vậy, sự chứng nhận đầu tiên được áp dụng cho anh ta đã bắt đầu. Bởi vì anh ta là chủ của những cánh đồng (hay đất đai), anh ta được gọi là ‘chiến binh’ (những từ ‘chiến binh’ hay ‘ruộng đồng’ có âm đọc tương tự trong ngôn ngữ gốc, đây không phải chứng cứ lịch sử mà chỉ là sự suy diễn)… Bởi vì anh ta làm người khác hoan hỷ với những thiện pháp, nên được gọi là vua (‘vua’ có thể xuất phát từ động từ ‘hoan hỷ’ mà có)…”.
Chiến binh thuộc giai cấp quý tộc hay theo cách ‘di truyền’ như vậy được hình thành, nhưng đức Phật nói thêm rằng đó là thiện pháp hay chính nghĩa (dharma), là sự việc tốt nhất của con người, trong cả thế giới này và thế giới tương lai.
Tiếp đến, đức Phật nói về nguồn gốc thân phận của các đạo sĩ, tức các Bà-la-môn. Trong số chúng sinh này, có người nghĩ rằng các pháp xấu xa đã xuất hiện trong họ, lấy của không cho, quở trách, nói lời sai quấy, sử dụng bạo lực và hình thức trục xuất có mặt. Liệu họ tránh xa những pháp xấu xa và uế nhiễm ấy không? họ đã làm thế và kết quả là tên gọi Bà-la-môn (brāhmaṇa) lần đầu tiên được phân biệt trong họ (trong phương ngữ ở thời đức Phật, danh từ này có lẽ xuất phát từ động từ ‘viễn ly’; điều này một lần nữa cho thấy hoàn toàn là sự tưởng tượng). Những Bà-la-môn này đi vào rừng, sống dựa vào lá và hạt của núi rừng, tham thiền nhập định. Họ không chuẩn bị hay nấu thức ăn, nhưng đi vào thôn làng hay thành thị xin ăn vào buổi sáng và buổi tối. Do ngồi thiền trầm tư mặc tưởng nên họ còn có tên gọi thứ hai là ‘bậc thầy thực hành pháp Yoga’. Tuy nhiên, một số không thể ngồi thiền, nên họ dùng thời gian vào việc soạn và viết sách vở. Do họ không biết ngồi thiền nên họ được gọi là ‘phi Yoga sư’ (= ‘bậc thầy’, đây là một lối dùng chữ trong ngôn ngữ bản địa). Lúc bấy giờ, họ được mọi người công nhận là bề trên, nhưng hiện nay họ được xem là ưu tú. (Sách vở mà họ soạn ra dĩ nhiên là các bộ kinh Vệ Đà).
Giai cấp thứ ba của những chúng sinh này có nhiều loại ngành nghề, hình thành nên giai cấp thương gia và sản xuất (vaisyas: phệ-xá, được cho là liên quan đến từ visva: ‘tất cả’, nghĩa là tất cả ngành nghề, tất cả loại hình buôn bán, và do đó từ phái sinh này theo từ nguyên xem ra là điều đáng kính).
Một số khác còn lại trong những chúng sinh này trở thành thợ săn, địa vị thấp nhất trong tất cả, và được gọi là thủ-đà-la (śudras, từ này có trong bài thơ tiếng địa phương nói về ‘thợ săn’ và ‘sự đê hèn’, nghĩa là thấp bé, nhưng trong căn nguyên lịch sử của giai cấp này vốn là người bị chinh phục, hạ xuống làm vị trí của người nô lệ, ở thời đức Phật số lượng người giai cấp này chiếm đa số; tất cả những hạng người thấp kém này cùng với những bộ lạc sống trong rừng bằng nghề săn bắn, theo học thuyết của Bà-la-môn là giai cấp thứ tư và thấp nhất).
Do đó, tất cả bốn giai cấp đều đến từ một cộng đồng có cùng gốc gác, ban đầu chỉ phân biệt thuần túy ở nghề nghiệp (mà bà- la-môn chỉ sống đời sống cao quý là nhờ vào trầm tư mặc tưởng và đơn giản, họ rời khỏi thế tục, vào ở trong rừng, giống đời sống của những Sa-môn lang bạt thời đức Phật). Về sau, bất kể là người thuộc giai cấp nào, họ không thích đời sống giai cấp, họ rời bỏ gia đình, làm Sa-môn, từ đời sống người có nhà cửa thành người không nhà cửa.
Quy kết cuối cùng là do hành vi xấu ác, cho dù đó là hành động của thân thể, lời nói, hay suy nghĩ, đều đem đến quả báo xấu; hành vi tốt dẫn đến quả báo tốt, bất kể là người đó ở giai cấp nào. Hành vi không xấu không tốt dẫn đến quả báo không xấu không tốt, vừa hạnh phúc vừa không hạnh phúc. Bằng cách chế ngự và tu tập bảy pháp giác ngộ (Thất giác chi), bất kỳ ai cho dù xuất thân ở giai cấp nào đều có thể đạt đến tịch tịnh Niết bàn.
Kinh này là một trong số bản kinh trong Ba tạng giáo lý trực tiếp bác bỏ những tuyên bố của Bà-la-môn giáo về nguồn gốc khác nhau của con người, những người được sinh từ miệng của Phạm thiên, có tính đặc quyền di truyền, dạy dỗ, hướng dẫn và điều hành một phần tinh thần xã hội. Chỗ cần chú ý là sự bác bỏ của đức Phật không phải hoàn toàn, đúng hơn là Ngài đã hòa giải và thuyết phục những vị Bà-la-môn thời đó rồi đưa họ vào con đường chân thật của Ngài. Ngài vẫn giữ thể diện cho họ, cho rằng giai cấp của họ xuất phát từ động cơ tốt và truyền thống tốt. Chỉ do về sau tha hóa đọa lạc và lối sống của họ có hại đến xã hội, như cúng tế vừa có hại lại vừa vô ích, bắt chước nghi lễ cổ xưa (chúng ta sẽ thảo luận ở dưới), những bộ kinh điển Vệ Đà ngày xưa bao gồm những lời giáo huấn đầy đủ về đạo đức, nhưng hiện tại thì biến chất, và những lời khuyên, hướng dẫn mà họ truyền thọ cho người khác tuyên bố là bí mật siêu phàm, thường dẫn đến sai lầm và có hại. Mục đích chính của đức Phật là dùng tiêu chuẩn đạo đức thuần túy để thay thế tất cả bệnh độc quyền cha truyền con nối, xác nhận quyền bình đẳng của tất cả chúng sinh trước những nguyên tắc tự nhiên, sự tự do bình đẳng của họ là triển vọng đưa số phận của họ lên cao dựa trên quy luật duyên khởi mà Ngài đã khám phá. Bây giờ các Bà-la-môn đều không hiểu những chân lý của vũ trụ, nhưng họ có thể học chúng (nhiều người trong họ đã học và trở thành đệ tử của đức Phật) và rồi cùng nhau phát triển, làm gương và tuyên truyền giáo dục những đức hạnh tốt đẹp. Con người vốn không phải sinh ra là có đủ phẩm chất di truyền của Bà-la-môn, mà do tiêu chuẩn hành vi đạo đức cao thượng, và điều này cần phải được phục hồi cho xã hội.
Ở phần trước chúng ta đã tham cứu nhiều kinh điển liên quan đến Bà-la-môn và giai cấp, nhưng chúng ta cần quan sát nhiều chỗ thảo luận về sự tiến hóa của xã hội sâu hơn nữa. Hơn nữa chúng ta đã thấy một số kinh điển Phật giáo nói về những câu chuyện truyền thuyết trong Vãng thế thư (Pūraṇas, xem Chương 1), với sự tiến hóa của vũ trụ ra khỏi tối tăm, nguồn gốc của con người, vị vua đầu tiên (Sớ giải của Phật giáo sau này cho rằng vị ‘Đại tuyển cử’ là Manu, người sáng lập ra triều đại Mặt trời). Xem ra đây là những bản kinh được tu chỉnh, chấp nhận những tập tục đối với Vãng thế thư (có lẽ ít thần hóa hơn những bản kinh ngày nay), hoặc thậm chí tin rằng sự hồi phục thành công về những mặt thật được cắt xén trong truyền thống Bà-la-môn qua lăng kính khảo sát của ‘khoa học hiện đại’ (tức những học thuyết được thảo luận ở chương trước). Vốn không có sự tồn tại độc tôn ban đầu, như Phạm thiên hay vua trời (brahmā), mà chúng có hy vọng để trở thành số nhiều và trở thành vũ trụ: trong tiến trình tự nhiên của sự tiến hóa, Phạm thiên là một trong những ‘chúng sinh’, hoặc là một thành viên trong vòng duyên sinh, và ý tưởng của ông ta muốn kết bạn với người khác, nhưng kết quả nghĩ là sáng tạo ra họ, là một sự sai lầm buồn cười. Nhân loại là con người khác nhau nhưng cùng là chúng sinh, không kém không khác, ngoại trừ hành vi của họ khác nhau mà thôi. Mọi người sinh ra đều bình đẳng, và bình đẳng với thần linh, với Thượng đế. Họ trở thành như thế nào là dựa vào hành vi của chính họ. Ngọn nguồn chủng tộc và giai cấp khác nhau của con người xuất phát từ những câu chuyện thần thoại của Bà-la-môn giáo là không có ý nghĩa. Vị vua đầu tiên không phải hậu duệ của thần linh, như vậy tất cả con người cũng không cùng huyết thống với thần linh; ông ta không có đặc quyền thống trị mà do được bầu ra. Chúng ta đã thấy ở Chương 1 rằng bản thân những bộ Vãng thế thư (Pūraṇas) toàn chép các truyền thuyết nói về tình trạng vô chính phủ trong xã hội đã chấm dứt bằng việc bầu cử chọn ra vị vua đầu tiên: Ở đây trong những truyền thuyết cổ đại hỗn loạn mâu thuẫn, ít nhất đức Phật có thể tìm thấy một số biểu hiện rằng những gì Ngài tin từng là sự thật lịch sử được ghi chép lại và về sau bị chìm sâu trong thần thoại.
Nguồn tư liệu Phật giáo không chú trọng đến các triều đại của những vị vua được đề cập tiếp theo ‘đấng tuyển cử’. Ba tạng giáo lý chỉ quan tâm đến lý luận chính trị, những thứ có thể dùng lịch sử để giải thích nguyên tắc cơ bản của chúng, nhưng không ghi chép lịch sử quá khứ chi tiết. Kinh Đại bát Niết bàn (Mahāparinirvāṇa) nói cho chúng ta biết những sự kiện cuối cùng trong cuộc đời của đức Phật, cho thấy đức Phật thảo luận về những nguyên tắc của nhà nước cộng hòa, không những rất quan trọng đối với cộng đồng Phật giáo, mà còn mang nhiều vấn đề thời sự chính trị. Những kinh khác còn nói về thành tựu của các vị vua vĩ đại hay vua chuyển luân (cakravartins) trong quá khứ.
Có một bản kinh trong Trường A-hàm3 nói về vương triều của ba vị vua kế thừa nhau nỗ lực cai trị bằng công lý, theo truyền thống đại tuyển cử, vị vua cuối cùng thất bại, từ đó xã hội khuynh đảo, trượt nhanh xuống dốc đọa lạc, hoặc nói chính xác là đi trên con đường bạo loạn, gây nguy biến cho xã hội. Vương triều đầu tiên,4 kéo dài đến hàng nghìn năm (bởi vì tuổi thọ con người lâu hơn khi xã hội chưa sa đọa), trên trời xuất hiện một ‘bảo luân’ trông giống sao chổi hay sao mới như tên gọi ngày nay, cũng quay quanh Mặt trời và Mặt trăng. Vị vua này biết được các hiện tượng thiên văn biểu hiện cho nguyên tắc trị nước của ông ta, và sau đó mấy nghìn năm vị vua này nhờ một người trông coi khi nào vòng bảo luân quay chậm hoặc lệch vị trí liền báo cho nhà vua biết (Sớ giải của thượng tọa bộ giải thích rằng nhà vua cho đặt một đài thiên văn ở cổng chính hoàng thành). Khi người hầu cận báo cáo sự việc này diễn ra, nhà vua biết triều đại của ông ta sắp hết và ông ta phải thoái vị, xuất gia trở thành ẩn sĩ và tìm kiếm hạnh phúc ở cõi trời thay cho hạnh phúc cõi người.
3. D No. 26, T 1 No. 6.
4. Dṛḍdhanemi; trong Mithitā, MSV, SoR I, tr. 20. Xem thêm D III tr. 59.
Nhà vua phong thái tử lên ngôi, còn mình xuất gia làm ẩn sĩ (ṛṣi). Một tuần sau bảo luân biến mất. Nhà vua mới cũng bị điều này làm cho tâm lý bất an, ông ta đi tìm vua cha để hỏi cớ sự. Ẩn sĩ bảo cho nhà vua mới rằng bảo luân không phải tài sản kế thừa. Nếu nhà vua mới làm theo cách làm việc của các bậc thánh thì bảo luân sẽ xuất hiện. Hỏi làm theo cách làm của các bậc thánh là gì, ẩn sĩ bảo rằng dựa vào pháp (dharma), tôn kính pháp, hoằng pháp, giương cao ngọn cờ pháp..., con phải bảo vệ an toàn, che chở và chiếu cố cho dân, đối đãi tốt với binh lính, Bà-la-môn, cư sĩ, người thành thị, người nông thôn, Sa-môn, động vật và chim chóc. Trong vương quốc, không cho phép hành vi bất công. Nếu có ai trong đất nước còn nghèo túng, phải cung cấp tiền của cho họ. Thường học hỏi ở những vị Sa-môn và Bà-la-môn, cho dù họ tu tập tinh tấn hay giải đãi, họ đều có được thành tựu nhẫn nại và đạo đức, họ điều phục được thân, an tịnh tâm, đạt đến tịch tịnh. Nên hỏi họ: Gì là tốt, gì là xấu, gì đáng quở trách, gì không nên quở trách, gì phải tầm cầu, gì không nên tầm cầu, gì chìm đắm và gì không? Làm việc gì đem lại khổ đau và bất hạnh dài lâu, hoặc làm việc gì đem lại lợi ích và hạnh phúc dài lâu? Lắng nghe họ, người ấy tránh được những hành vi xấu và làm những việc tốt.
Nhà vua mới làm theo như vậy, và bảo luân xuất hiện; nhà vua biết mình là một vị vua chân thật. Vòng bảo luân quay quanh bốn phương, nhà vua lãnh đạo quân đội đi theo bảo luân. Đến đâu, vua của các nước chư hầu đến quy phục, xin nhà vua chỉ dạy. Nhà vua bảo họ không được giết chúng sinh, không lấy của không cho, không dâm dục, không nói dối, không uống chất say nghiện, phải trị vì đất nước (thu thuế) vừa phải (nghĩa đen ‘theo quy định’).
Sau mấy nghìn năm, vòng bảo luân chậm lại, rơi xuống thấp, và nhà vua biết triều đại của mình sắp hết. Ông ta lập thái tử lên ngôi và xuất gia. Nhưng khi thái tử lên ngôi, vòng bảo luân biến mất, lần này thái tử không đến hỏi vị ẩn sĩ vua cha về cách làm việc của bậc thánh. Thay vì thế, nhà vua mới điều hành theo chủ kiến của mình (mata) và đất nước không thể giàu mạnh như trước. Tể tướng, các quan trong triều, đại thần tài chính, binh lính, vệ sĩ giữ cửa và người có học đến than phiền (IKL 6707). Họ tâu với nhà vua rằng họ và những người khác giống như họ ở đất nước này còn nhớ những việc làm của bậc thánh, có thể giải thích cho nhà vua. Nhà vua đồng ý và tiến hành hội nghị thảo luận với họ, sau đó thành lập các tổ chức bảo đảm an toàn, che chở và bảo vệ mọi người.
Nhưng nhà vua không cấp phát tiền của cho người nghèo khó, kết quả là nghèo đói vẫn lan rộng. Thế rồi một người bị bắt vì lấy của không cho, phạm vào tội ‘ăn cắp’. Hắn ta bị trói và giải đến trước mặt vua. Nhà vua hỏi hắn có thật là phạm tội ăn cắp, và hắn nhận tội. Khi hỏi tại sao, hắn ta trả lời hắn ta không có việc gì để kiếm sống. Thế rồi nhà vua cấp phát cho hắn tiền và bảo về lập nghiệp làm ăn, chăm sóc cha mẹ và gia đình, làm từ thiện cho các vị Sa-môn và Bà-la-môn, làm được như vậy có thể tái sinh lên cõi trời, hưởng phúc báo. Hắn ta vâng mệnh.
Người khác hay chuyện, bảo rằng nhà vua khen thưởng tên trộm cắp và học theo cách của hắn. Sau đó nhà vua nghĩ rằng nếu cấp tiền của cho người ăn cắp thì nạn trộm cắp sẽ gia tăng. Ông ta quyết định lấy hình phạt để răn đe, và ra lệnh tử hình tên ăn cắp trước thiên hạ.
Điều này không đem lại hiệu quả. Trộm cắp càng táo tợn dùng gươm nhọn sát hại nạn nhân. Chúng cấu kết thành nhóm đột nhập vào thôn làng và thị trấn, thậm chí cả thành thị, hoặc cướp bóc trên đường. Do nhà vua không cấp phát tiền của cho người nghèo, nên nạn đói kém ngày càng lan rộng, theo đó là nạn trộm cắp, bạo lực, giết chóc và nói dối hoành hành (được giải thích ở phần sau). Kết quả của dối trá làm tuổi thọ con người ngắn hơn.
Ở đây giải thích nguồn gốc của dối trá như sau: Người kia phạm vào tội trộm cắp được giải đến trước mặt vua để thẩm vấn và định tội. Hắn ta chối cãi chạy tội, cố ý nói dối, sau đó còn dùng tâm xấu xa tố cáo người khác phát giác trộm cắp.
Khi tiến trình sa đọa biến chất tiếp diễn, con người mất đi nhan sắc cũng như tuổi thọ bị ngắn lại. Không phải tất cả họ đều hoàn toàn mất hết sắc đẹp, và hậu quả của nó là một số người có hành vi tà dâm với vợ của người khác. Hành vi ‘dục lạc tà dâm’ từ đó trở nên lan tràn.
Từ quan điểm này nhìn ra nhiều pháp xấu xa khác trở nên lan tràn và tuổi thọ ngày càng ngắn đi do hành vi sai quấy của họ. Chi tiết của những pháp xấu xa đó tuy không nói đủ, nhưng chúng tuần tự diễn ra: Lời nói thô xấu, ngồi lê đôi mách, tham muốn đồ của người khác, tâm ý ác độc, học thuyết tà ác, loạn luân, lòng tham không đáy, tà hạnh đồng tính, bất hiếu cha mẹ, bất kính những vị Sa-môn, Bà-la-môn và người lớn tuổi. Đến lúc này, tất cả những điều xấu xa trở nên lan rộng, tuổi thọ của con người giảm xuống 250 tuổi và tương lai sẽ giảm còn 100 tuổi. Lúc này có thể là thời đức Phật tại thế, tuổi thọ con người cao nhất là 100 năm.
Kinh này tiếp tục nói về một dự báo lạc quan của tương lai, mặc dù đức Phật biết rằng trước khi con người tỉnh ra những việc làm thật sự sai lầm trước đây, họ cảm thấy hối hận (sau 2.500 năm thịnh hành, lịch sử cũng đã đưa ra kết luận này). Tuổi thọ sẽ giảm xuống còn mười năm (tuổi kết hôn là 5 tuổi). Chỉ còn một loại thức ăn tẻ nhạt nhất. Hành vi tốt sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, thậm chí lời nói ‘Tốt’ (hoặc chính xác ‘ý tưởng tốt’ - lấp lửng nửa chừng) sẽ không còn trong con người, còn người có hành vi tốt sống đơn độc. Những người bất hiếu, bất kính (như trên) sẽ được tôn vinh và xưng tụng, giống ngày nay những người hiếu thuận và kính trọng được khen ngợi và ca tụng. Không nhận ra được những mối quan hệ trong gia đình và con người sống giống dê, chó...
Đến lúc này, con người sẽ mang trong lòng tâm ý thù địch sâu sắc, tức giận và sát hại người khác, như một thợ săn đối với cầm thú. Khi xem nhau là cầm thú, họ sẽ tổ chức mấy tuần lễ ‘đại đồ sát’, vác kiếm nhọn đi khắp nơi tha hồ chém giết sinh mạng người khác.
Sau đó, một số họ nghĩ rằng: “Chúng ta hãy dừng lại… thì người khác cũng không lấy mạng mình… chúng ta hãy rút vào rừng rậm, hoặc núi thâm u, rồi sống ở đó, ăn quả và củ của rừng núi”. Sau những tuần lễ đao binh, họ thực hiện như thế, sau đó họ đi lui đi tới và ôm nhau, tụ tập ca hát và cỗ vũ nhau: “tuyệt quá, người anh em, anh còn sống!” họ phát hiện ra những việc làm tốt đẹp xuất hiện lại trong họ: Ngừng giết hại mạng sống. Kết quả là họ thấy tuổi thọ của mình tăng và tướng mạo trở nên đẹp hơn, từ đó họ tìm đến những việc làm tốt đẹp. Dần dần, họ sẽ thấy lại tất cả những việc làm tốt để loại trừ việc làm xấu, những việc tốt ngày càng lan truyền rộng rãi hơn trước. Toàn bộ tiến trình sa đọa sẽ được phục hồi cho đến thời ‘lục địa hoa quả’ (tức Ấn Độ, lục địa phía Nam của Âu-Á rộng lớn) sẽ phồn vinh và thịnh vượng, dân số đông đúc (‘giống như môi trường trong sạch’, đức Phật có lẽ liên hệ với môi trường thâm u). Vārāṇasī sẽ là thủ đô, được gọi là Ketumatī, vua Śaṃkha sẽ trị vì ở đó và vòng bảo luân sẽ xuất hiện trở lại. Vua Śaṃkha sẽ chinh phục toàn thế giới không phải bằng bạo lực, không phải bằng gươm đao, mà bằng chính pháp (dharma).
Để hoàn thành hạnh phúc cho nhân loại, vị Phật kế tiếp là đức Di Lặc (Maitreya) sẽ ra đời ở thế giới này, tuyên thuyết giáo pháp và hướng dẫn tu hành phạm hạnh (và sẽ có nhiều đệ tử quy y hơn cả đức Phật hiện tại). Ở phần cuối, kinh này tóm tắt giáo lý, bao gồm niệm xứ, thiền định và tu tập lan tỏa khắp vũ trụ với tâm từ, bi, hỷ và xả.