Những kinh điển ở phần trước cho chúng ta thấy ý của đức Phật về một xã hội cổ đại hoàn hảo trước khi sự sa đọa diễn ra, đó cũng là một xã hội lợi lạc, là xã hội hạnh phúc của tương lai, được hồi phục sau những tham vọng chiến tranh và bạo lực. Khái niệm tiến hóa là phương diện đặc trưng của Phật giáo, trong đó sự mất mát tính thuần khiết ban sơ là do lực dụng của nhân quả tạo thành phiền não, tham dục... Một số chúng biến chất thành ‘kẻ phóng túng’ (loha) và nếm ‘đất ngon’, kết quả là sinh khởi cảm thọ ái dục (tṛṣṇā). Tất cả những điều này chúng ta đã thảo luận chi tiết ở chương trước. Ở đây, điều mà chúng ta cảm thấy thú vị là tính chất của xã hội mà chúng sinh trong đó hưởng thụ hạnh phúc, đẹp đẽ, phát sáng, nuôi sống bằng niềm vui. Thậm chí khi những chúng sinh này càng trở nên giống con người, sống trên trái đất và hưởng thụ thực vật ngon ngọt mọc lên từ đó, sống lâu ở đó mà không có sự chuyển biến xã hội lúc ban sơ.
Mặt quan trọng nhất của xã hội này là không có giai cấp. Đối tượng của đoạn đối thoại đầu cho thấy rằng những sự tuyên bố của Bà-la-môn không có sơ sở, và hết thảy chúng sinh đều bình đẳng trước những nguyên tắc đạo đức (hành vi tốt sẽ dẫn đến quả báo tốt...). Lúc đó không có đạo sĩ, cũng không có giai cấp quý tộc và vua chúa, một loại hình nhà nước đơn thuần là hội chúng của mọi người, nhưng sau đó tài sản cá nhân được xác lập, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong của xã hội cổ đại. Lúc này không làm việc, chỉ nhặt đủ thức ăn cần thiết cho mỗi bữa. Cây ăn trái rất phong phú và sai quả, do đó tất cả những nhu yếu dễ dàng đầy đủ và không có vấn đề tư hữu diễn ra. Cũng như không có cơ sở cho bất cứ bạo lực nào dấy khởi hoặc dùng đến vũ lực, do vắng mặt của tài sản nên không thể có trộm cắp. Dường như cũng không có tôn giáo, bởi vì không có tu sĩ. Hơn nữa, xã hội không có đạo đức thì trong suy nghĩ của con người cũng không có ý niệm về hành vi tốt, cho đến khi kết thúc thời kỳ này thì sinh ra giai đoạn phân biệt giới tính và tài sản. Nếu không có Sa-môn thì có lẽ cũng không có triết học. Duy nhất trong xã hội hạnh phúc của tương lai này là hạnh phúc, không phải bởi vì nó là sự ngây thơ mà là sự tiến bộ của đạo đức, chắc chắn đó sẽ là bộ quy tắc của đạo đức và cuối cùng một vị Phật mới sẽ khởi động lại giáo lý của Phật giáo (điều này ngụ ý rằng giai đoạn thấp hèn nhất của sự sa đọa thì ý niệm về ‘điều tốt’ không còn nữa, chính pháp cũng như triết học hoặc tôn giáo dạy về điều tốt cũng biến mất từ lâu; sự phục hưng của xã hội tương lai rõ ràng thế chỗ hệ thống tư tưởng sa đọa không mang lại chút lợi ích gì, bằng sự khám phá thực tiễn về những nguyên tắc của một xã hội thuần túy không chút bạo lực).
Nếu một xã hội hạnh phúc được hồi phục, những nguyên tắc đạo đức phải được lưu hành, cho dù Phật giáo có mặt hay không có mặt. (1) Nguyên tắc căn bản nhất được thành lập trước hết phải vì sinh mạng của chúng sinh hay xuất phát từ ‘không sát sinh’. Ở giai đoạn ‘đao binh’ (=chiến tranh?) diễn ra liên miên, sự tái thiết xã hội sẽ được bắt đầu từ những người xuất gia, tránh xa đánh nhau. Điều này sẽ là sự kỳ vọng tăng trưởng trong đời sống, và dường như cho thấy lợi ích của xã hội tương lai là không thể nghĩ bàn, mọi người sẽ tuân thủ những nguyên tắc này. Trước thời đó, ở giai đoạn sa đọa rõ ràng chẳng có ích lợi gì đối với mọi người. Sự tranh chấp nhỏ chưa đủ, chỉ với kiếp nạn đao binh, đồ sát ở quy mô lớn mới có ấn tượng thấm thía. Những nguyên tắc này được tập hợp khái quát hơn trong lời dạy của những bản kinh, chính là tính tự nhiên: Không bạo lực và không sân hận. Thêm vào đó, những người đã rút khỏi chiến tranh sống nhờ vào củ và quả, tức là những người ăn chay. (2) Tài sản của cải được xem là tai họa, là sự tệ hại căn bản sinh ra từ những việc làm xấu xa, nhưng dường như với những điều kiện lúc bấy giờ (thiếu sự phong phú của thức ăn) xem ra cũng không thiếu việc xấu. Do đó, tài sản của cải phải được tôn trọng là nguyên tắc thứ hai ‘không trộm cắp’. Một diễn tả khác của nguyên tắc này trong những kinh điển của chúng ta đang tham khảo là không tham lam. (3) gia đình và hôn nhân mặc dù trong xã hội hạnh phúc ở thời xa xưa đó không được biết rõ nhưng cũng được tôn trọng. Không dâm dục ở nội dung này đồng nghĩa với không tà dâm, cũng là một nguyên tắc chủ đạo. Ở đoạn kinh thứ hai nhấn mạnh hiếu kính, có thể được xem liên quan đến nguyên tắc này, cũng có thể được xem là một nguyên tắc độc lập. ‘Tôn kính người lớn tuổi’ có nghĩa kính trọng anh hoặc anh cả. (4) Nguyên tắc chính cuối cùng là thành thật: “Không nói dối”. Nguyên tắc này là tránh xa tất cả những loại lời nói có hại: Lời nói có ác ý, lời nói thô bạo... Ngoài ra còn có một số nguyên tắc thi thoảng được đề cập đến, có thể cho là thiện nhưng không có cơ sở: Các pháp bất thiện thịnh hành ở giai đoạn sa đọa bao gồm những học thuyết tà đạo và sự bất kính đối với Sa-môn hay Bà-la-môn (những điều này cũng được liệt vào nói dối). Cuối cùng, vị vua chuyển luân lúc chỉ bày cho những thủ lĩnh của các nước chư hầu thực hành những giới cấm, trong đó có nguyên tắc không uống chất say nghiện (chúng ta tìm thấy lý do thực hiện điều này trong các bản kinh khác, rằng với tình trạng say nghiện, con người dễ phạm vào những hành vi xấu ác). Còn nguyên tắc thu thuế vừa phải thuộc về quy định của Nhà nước.