Trước khi khảo sát lại những nguyên tắc dành cho một thể chế chính tốt đẹp trong những bản kinh này, chúng ta có lẽ khảo sát thêm một bản kinh trong Trường A-hàm,5 giải thích về trách nhiệm của một vị vua. Ở đây đức Phật nói chuyện với một vị bà- la-môn về tính quan trọng của ‘vật phẩm’ cúng tế, những tính quan trọng này liên quan đến vấn đề nằm ở vai trò của bà-la- môn trong xã hội và có lẽ chúng ta sẽ khảo sát sau, nhưng đức Phật minh họa quan điểm của Ngài bằng câu chuyện sau.
5. D No. 5, T 1 No. 23.
Ngày xưa, có một vị vua Bà-la-môn, hiệu là Đại Phương Quảng. Ông ta rất giàu có, châu báu tràn đầy, tài sản bao la, vàng và bạc không kể xiết, bày nhiều cuộc vui, tiền và lúa đậu đầy bồ và kho. Sau đó, do ngồi một mình cô độc, trong đầu của vua Đại Phương Quảng dấy lên ý tưởng như sau: ‘Ta đã có được tài sản giàu nhất thiên hạ. Ta đã chinh phục và cai quản một vùng đất rộng lớn. Tại sao ta không cử hành một đại tế đàn, nhờ vậy mà có thể đem lại lợi lạc và hạnh phúc dài lâu?’ (Dĩ nhiên ông ta nghĩ về tương lai, một đời sống cao hơn loài người; theo quan điểm của Bà-la-môn giáo, một người có thể đạt đến cõi trời bằng cách cử hành nghi lễ dâng cúng lễ vật đặc biệt). Thế rồi, vua bà- la-môn, Đại Phương Quảng nói với những vị đạo sĩ Bà-la-môn… (nói về ý tưởng của ông ta, và ông ta muốn cử hành một đại tế đàn, rồi nói:) ‘Này các vị, hãy chỉ cho tôi biết, tôi phải làm thế nào để có được lợi lạc và hạnh phúc lâu dài”.
“Sau khi nghe ông ta nói xong, các vị đạo sĩ tâu với vua Đại Phương Quảng rằng: ‘Đất nước của bệ hạ khắp nơi đang bị áp bức và loạn lạc. Chúng ta thấy đạo tặc tấn công làng xóm, thị trấn và thành thị, thậm chí cướp bóc ngay trên đường. Nếu bệ hạ thu thuế khi đất nước đầy áp bức và loạn lạc, đó là điều không đáng làm. Bệ hạ cho rằng đạo tặc quấy nhiễu (nguyên nghĩa là phất cờ) có thể áp dụng hình thức tử hình, bỏ tù, tịch thu sung công hay trục xuất. Bằng cách này, nạn quấy nhiễu của bọn trộm cướp vẫn không thể hoàn toàn được dẹp yên. Bọn trộm cướp sống sót sau đó sẽ quay lại quấy nhiễu đất nước của bệ hạ. Tuy nhiên, dựa vào chính sách sau đây thì nạn quấy nhiễu của bọn trộm cướp sẽ được dẹp yên hoàn toàn: bây giờ, bệ hạ hãy phân phát hạt giống và gia súc cho người dân trong nước để trồng trọt và chăn nuôi. Bệ hạ hãy cung cấp vốn cho người dân trong nước buôn bán kinh doanh. Bệ hạ hãy cấp bổng lộc và thức ăn cho người phục vụ trong triều đình. Những người đó chí thú vào công việc của mình, họ sẽ không còn quấy nhiễu đất nước của bệ hạ nữa; đồng thời sẽ có sự tích lũy cho nhà vua (chúng ta phải hiểu rằng ‘Thu thuế vừa phải’ sẽ dựa vào thu nhập của mọi người). Đất nước được duy trì ổn định và không còn áp bức hay loạn lạc, thần nghĩ mọi người sẽ sống trong cảnh nhà nhà không cần đóng cửa, vui vẻ và an bình, trẻ con nhảy múa đùa vui”. Vua Đại Phương Quảng nghe nói đã tiếp nhận ý kiến và cho thực thi chính sách này, kết quả hoàn toàn mỹ mãn.
Nếu chúng ta không quên những nguyên tắc mà đức Phật đã giới thiệu về nhà nước cộng hòa của xứ sở người dân Bạt-kỳ. Những nguyên tắc này có thể dễ dàng khảo sát mở rộng, chỉ cần chúng ta quan sát nguyên tắc quản lý của cộng đồng Phật giáo được tổ chức như một nhà nước cộng hòa (xem Chương 3) và đưa ra những quy định chi tiết theo trình tự hoạt động của từng đơn vị dân chủ địa phương, nhưng ở đây chỉ cần nói về những nguyên tắc được chế định trực tiếp đối với sự quản lý của thế gian là đủ.
Có lẽ đặt vấn đề ở đây phải chăng đức Phật tán thành chế độ dân chủ hay quân chủ. Bởi vì Ngài tổ chức cộng đồng Tăng-già của Ngài theo phương thức đầu, không chấp nhận sự ‘kế thừa’, thậm chí bác bỏ đối với bản thân về bất kỳ đặc quyền lãnh đạo nào trong bất kỳ nghĩa giám sát hay điều hành nào, cho nên chúng ta càng kết luận Ngài thiên về cộng hòa. Nhưng Ngài dường như cũng chấp nhận chế độ quân chủ, có lẽ là sự xấu xa ở thời đại lịch sử sa đọa là một tất yếu, vì thế Ngài sẵn sàng thảo luận để giúp nó tốt lên. Có lẽ Ngài nghĩ rằng dân chủ không hiệu quả trong thời đại bạo lực, giống như nước Bạt-kỳ không thể áp chế được quyền lực tập trung mạnh mẽ hoặc thế lực lũng đoạn tiền bạc, do đó sức mạnh quyền lực vô địch rất cần thiết để duy trì trật tự và một số cấp độ của công bằng. Ở tình huống này, dựa vào lời khuyên của Ngài rằng vua chúa phải nhân từ, làm cho dân tốt đẹp thì chính mình cũng được lợi ích, và hơn nữa phải hết sức dân chủ, đó là lắng nghe những ý kiến đóng góp của hội chúng.
Những giới thiệu của đức Phật về nhà nước cộng hòa là thường hội họp và hội họp nhắm đến sự nhất trí của hội chúng, và sự nhất trí đó phải dựa trên những nguyên tắc được chấp nhận là phù hợp với truyền thống cổ đại, phải tôn trọng và lắng nghe những người lớn tuổi, bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái, tôn trọng những khám thờ thần và đóng thuế để ủng hộ họ, tạo chỗ ở cho ‘những bậc thánh’ (A-la-hán) trong nước cộng hòa để khuyến khích họ đến sống ở đó. Về mặt hòa hợp với truyền thống, chúng ta phải chú ý điều này, bởi vì xã hội cổ đại trước thời sa đọa hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn, đạo đức hơn xã hội hiện tại, những người trong xã hội đó tuân thủ những nguyên tắc của nó. Có lẽ hình thức bảo thủ này không hợp với thời đại đổi mới, trừ phi những nguyên tắc của xã hội cổ đại có trước thời sa đọa mới nên làm theo. Ý nghĩa của ‘khám thờ thần’ (caitya) là không rõ, về sau mới được đồng hóa vào chùa hay tháp (stūpa) tôn thờ đức Phật và đôi lúc thờ những vị cao tăng trong Phật giáo.
Những giới thiệu về tính cách của vua chúa được ghi chép lại khá khác nhau. Tuy không có vấn đề về sự thống nhất trong sự giới thiệu nhưng chính sách hòa giải trong câu chuyện của vua Đại Phương Quảng nhằm mục đích phát sinh sự hài hòa tương ứng. Những vị tiên tri trong hoàng gia thường khuyến cáo con trai của họ học hỏi các vị Sa-môn và Bà-la-môn có phạm hạnh bằng cách tham dự sát sao những hội họp thường xuyên của hội chúng. Về việc hòa hợp với các pháp cổ xưa, chúng ta thấy dường như đó là trách nhiệm đầu tiên của một vị vua, bởi vì ông ta là vị vua đầu tiên được bầu ra, gọi là hộ pháp. Tôn kính những bậc lớn tuổi và nghe lời chỉ giáo của họ, có thể là để khuyến khích ‘những bậc thánh’ (có thể là những vị Sa-môn, có thể là Bà-la- môn) đến ở trong nước, chúng ta một lần nữa lắng nghe lời khuyên từ những vị Sa-môn và Bà-la-môn kiên trì và nhẫn nại, khoan dung, hòa nhã và thanh tịnh. Giống như vị thầy tâm linh của vua Đại Phương Quảng, họ giải thích gì là tốt và gì là xấu, gì nên làm và làm thế nào để có được lợi ích và hạnh phúc. Cho đến việc bảo vệ, thay vì đặc biệt nói đến phụ nữ, bậc thánh, chúng ta tìm thấy sự duy trì ổn định, chỗ ở và bảo vệ toàn xã hội, thậm chí cả động vật và chim muông. Trong các kinh điển này không nói đến những khám thờ thần.
Ngoài ra còn có nhiều lời khuyên phụ rải rác cho những vị vua. Để bảo vệ nguyên tắc, đối với người phạm pháp thì phải khiển trách và nếu cần thiết thì trục xuất, ít nhất là những lời chỉ đạo do vị vua đầu tiên đưa ra. Đem điều này kết nối với giáo lý trong những kinh điển, đặc biệt là chính sách hòa giải trong xã hội loạn lạc, cho thấy rằng hình phạt hết sức ôn hòa. Trong thực tế, điều này rõ ràng là kết quả tất yếu trong toàn bộ giáo lý và thái độ của đức Phật, nhắc nhở chúng ta phương pháp chế định giới luật cho cộng đồng tăng và Ni của đức Phật. Chính đức Phật cũng chấp nhận sự chia sẻ sản phẩm trong nước bằng việc đóng thuế, nhưng đề nghị vừa phải. Lời khuyên cuối cùng của nhà vua đối với chư hầu của ông (lãnh chúa, vua của nhiều nước khác nhau) rằng họ cũng phải có trách nhiệm giới thiệu cho mọi người về bốn nguyên tắc đạo đức xã hội, chúng ta đã thảo luận qua (không bạo lực, không tham lam, không tà dâm, chân thành), và không uống chất say nghiện. Những điều này ý muốn nói rằng trách nhiệm của người lãnh đạo là giáo dục bề tôi những pháp đạo đức tốt đẹp. Phát xuất từ những lời khuyên chân thành của nhà vua, ông được giả định là chinh phục toàn trái đất này mà không phải bằng bạo lực. Vị vua tương lai Śaṃkha cũng sẽ như vậy: Nhà vua sẽ ‘chinh phục bằng chính pháp’, không bằng gươm giáo. Ý tưởng này là niềm mong muốn của cả nhân loại, sống dưới một nhà nước công bằng, họ sẽ tự nguyện và sẵn sàng phục vụ.
Ngoài ra còn có thêm lời khuyên về đặc tính của kinh tế, chúng cực kỳ quan trọng và thú vị. Dù gì đi nữa, kinh tế vẫn là ưu tiên, thực tế căn cứ vào hệ thống Phật giáo, thì hạnh phúc của xã hội là dựa vào cơ sở kinh tế ổn định. Kinh tế thịnh vượng và phát triển hòa giải các mâu thuẫn trong xã hội của vua Đại Phương Quảng, là giải pháp hữu hiệu nhất để kết thúc loạn lạc, đồng thời cũng làm giàu cho nhà vua, bởi vì sự đầu tư của nhà vua cho đất nước mang lại lợi nhuận (từ thuế) và tài sản của nhà vua cũng gia tăng. Xã hội hòa bình và kinh tế thịnh vượng cũng hỗ trợ cho Phật giáo phát triển, tăng đoàn và đời sống phạm hạnh được rạng rỡ và lan truyền, giáo lý được mọi người nghiên cứu học tập. Đức Phật không phải hy vọng giáo lý của Ngài phát triển ở thời đại của Ngài, mà trong tương lai và giai đoạn văn minh cùng cực sa đọa và bị bạo lực nhấn chìm vẫn tồn tại. Ngược lại sau khi hòa bình và thịnh vượng được hồi phục liền có một vị Phật xuất thế, tuyên thuyết giáo pháp lần nữa, xây dựng đời sống phạm hạnh, tức là cộng đồng Tăng-già của Phật giáo. Cộng đồng Tăng-già Phật giáo sống chính là dựa vào sự cúng dường của cư sĩ tại gia ở các thôn làng và thành thị, các tỷ- kheo vào mỗi buổi sáng cầm bát khất thực, dĩ nhiên là xã hội khá giả mới cung cấp cho họ, điều này không cần chứng minh. Từ lịch sử giáo lý của đức Phật, như chúng ta đã xem qua, cho thấy rằng sống trong một xã hội phồn vinh hợp lý, trong giai đoạn tiến hóa có lợi của xã hội, người đó có thể nhận chân sâu sắc tính thực tại của khổ và vui, phân tích đến cùng cực thì cho dù sống giàu có sung sướng (hay là đời sống xa hoa của đức Phật được nghi chép lại trước khi Ngài xuất gia) vẫn là hình thức của khổ, từ đó xả bỏ đời sống thế tục, xuất gia sống đời phạm hạnh, làm những người nam tu sĩ và nữ tu sĩ trong Phật giáo.
Như vậy trách nhiệm một vị vua là phòng tránh nghèo đói - cội gốc của những thói hư tật xấu, như chúng ta đã đọc qua - bằng cách cứu trợ người nghèo khó. Nguyên tắc này với những vị vua thời cổ đại, đã duy trì sự phồn vinh và đạo đức cho xã hội cho đến khi vị vua kế thừa làm hỏng nó, điều này được miêu tả trong lời khuyên đối với vua Đại Phương Quảng. Ba giai cấp lao động sản xuất tạo ra của cải cho xã hội được phân biệt. Đối với người làm ruộng hay nông dân, cung cấp hạt giống, giúp họ phát triển nghề nông, và còn cung cấp gia súc để phát triển chăn nuôi. Đối với người buôn bán, cung cấp vốn liếng để vận hành kinh doanh. Giai cấp thứ ba có lẽ (định hình trong xã hội Ấn Độ như trong Ba tạng giáo lý mô tả) bao gồm một số lớn người làm việc trong hoàng gia, không chỉ là quan chức mà còn lính tráng và nhân viên phục vụ. Lúc bấy giờ, thông thường các ngành công nghiệp, khai mỏ, luyện kim và dệt may do nhà nước trực tiếp tổ chức (khoảng năm 300 TTL, tác phẩm Lợi luận (Arthaśāstra) giới thiệu nhà nước độc quyền khai thác nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt là khai thác mỏ). Có một số ngành công nghiệp do các thương gia điều hành, đa số là thủ công nghiệp, nhưng đức Phật khuyên trả lương bổng và thức ăn cho những người phục vụ trong triều đình chắc chắn có nghĩa rằng những ngành công nghiệp căn bản của đất nước do người thống trị mở rộng để nâng cao sức lao động sản xuất. Một số ngành công nghiệp khác phát triển nhờ vào vốn để các thương nhân hoạt động, cũng là sự khích lệ gián tiếp để kinh doanh buôn bán thành công.
Nghe nói nhờ vào việc thực thi những chính sách kinh tế này đã mang lại thái bình thịnh thế (như vậy nhà nhà không cần đóng cửa) và mọi người vui vẻ.