Những kinh điển đã đọc trong chương này, chúng ta tìm thấy nhiều thảo luận về giai cấp và những luận cứ bác bỏ vị trí đặc thù và đặc quyền của Bà-la-môn. Một số quan điểm chính trong giáo lý của đức Phật về phương diện này đã được tổng kết ở trên (tr. 241 trở xuống). Giai cấp ban đầu mang tính nghề nghiệp, không phải do nòi giống di truyền, phải rõ ràng như thế (sau đó bỏ đi ý nghĩa ban đầu, giai cấp trở thành nghĩa theo Bà-la-môn giáo). Bất kỳ ai cũng có thể trở thành Sa-môn, không quan tâm đến gốc gác giai cấp: Nói về vấn đề này có một bản kinh khác6 mô tả sự xác quyết rằng bất cứ ai trong bốn giai cấp đều có thể tu tập đạt đến giác ngộ hay Niết bàn, chỉ cần họ có hiểu biết. Cũng vậy, bất cứ ai trong bốn giai cấp đều phải theo quả báo hành động của mình, không phân biệt thuộc giai cấp nào.7 Một bản kinh khác8 bình luận về đặc quyền kế thừa chủng tính Bà-la-môn là không đúng, trên thực tế ai là chủ, ai là tớ, hoàn toàn dựa vào của cải để nói (tuy nhiên cách bình luận này không phải do đức Phật nói mà do một vị tỷ-kheo lập luận sau này).
6. M No. 90 (II tr. 128), T 26 No. 121.
7. Kinh nhấn mạnh điều này, xem M No. 93, T 26 No. 151.
8. M No. 84, T 99 (Saṃyukta) quyển 20 No. 12.
Quan niệm của đức Phật đối với vấn đề phục vụ có nói trong một bản kinh khác,9 chép rằng một hôm có vị Bà-la-môn giải thích với Ngài rằng tất cả Bà-la-môn đều tuyên bố có bốn loại nghĩa vụ: Đối với Bà-la-môn, đối với hoàng tộc, đối với tầng lớp nông thương (vaiśya), đối với nô lệ (śūdra). Phân biệt rằng Bà-la-môn được tất cả người ở những giai cấp khác phục vụ; tướng soái được tướng soái hoặc hai giai cấp thấp hơn phục vụ; phệ-xá (vaiśya) được giai cấp phệ xá hoặc giai cấp nô lệ phục vụ; nô lệ chỉ được nô lệ phục vụ. (Như vậy, có sự phân biệt đẳng cấp từ Bà-la-môn đến nô lệ). Khi đức Phật hỏi phải chăng mọi người đều công nhận tính chất trội hơn này của Bà-la-môn, vị Bà-la-môn ấy thừa nhận rằng không. Thế rồi, đức Phật bác bỏ những tuyên bố đó của bà- la-môn, giống như một người ném miếng bánh khó ăn đến trước mặt những người khác rồi bắt họ phải trả tiền. Đồng thời Ngài không chấp nhận một số người bắt mọi người phục vụ hoặc bất kỳ ai bắt người khác phục vụ. Nếu sự phục vụ này làm cho người được phục vụ tốt lên (mặt đạo đức), thì nên phục vụ; nếu người đó càng trở nên hư hỏng, thì không nên phục vụ. Điều này áp dụng cho mọi người không phân biệt giai cấp chủng tính. Một người trở nên tốt hơn hoặc trở nên xấu đi không phải do sinh ra ở dòng họ cao quý, cũng không phải vì màu da quý phái (varṇa: nghĩa là ‘đẹp’ và ‘giai cấp’, ở đây nói về nghĩa sau), cũng không phải vì giàu có. Nếu một người sinh ra ở dòng họ cao quý, v.v, mà giết hại chúng sinh, trộm cướp, hoặc phạm vào những hành vi xấu xa, thì sự sinh ra trong dòng họ cao quý đó không làm cho vị đó ‘Tốt hơn’. Nếu vị đó hoàn toàn không làm những việc này, thì sự sinh ra trong dòng họ cao quý đó cũng không làm vị đó ‘xấu đi’.
9. M No. 96, T 26 No. 150.
Vị Bà-la-môn này tiếp tục nói về bốn loại tài sản theo chủ trương của Bà-la-môn giáo, bốn loại tài sản chân chính cho bốn giai cấp: thức ăn cho Bà-la-môn, cung tên cho tướng soái, trồng trọt và chăn nuôi cho phệ-xá, liềm và rìu cho nô lệ. Mọi người đều khinh bỉ những ai có tài sản bất chính, giống như (đặc biệt) người vừa trông coi vừa lấy cắp bất chính. Đức Phật lại hỏi vị Bà-la-môn kia phải chăng mọi người đều công nhận bốn điều này, vị ấy thừa nhận không, và đức Phật đưa ra lời bác bỏ tương tự. Quan điểm cho rằng sinh ra thuộc về giai cấp khác nhau cho chúng ta biết rằng chỉ có nguồn gốc khác nhau ở loài người, còn sự khác biệt giữa các loại lửa như ‘lửa củi’, ‘lửa rơm’… thì ý nghĩa càng khác nhiều. Một người từ bỏ thế tục xuất gia có thể đến từ gia đình thuộc giai cấp Bà-la-môn, tướng soái, phệ-xá hay nô lệ, sau đó tu tập theo kinh điển và giới luật của Như Lai đều đạt đến thành tựu. Chẳng lẽ người có nguồn gốc từ bốn loại giai cấp trên tu tập phát triển tâm từ, không còn sân hận, không còn ác tâm không thể chăng? Vị Bà-la-môn đó thừa nhận là có thể.
Trong một thảo luận với một số Bà-la-môn,10 họ bảo với đức Phật rằng có năm đặc tính có thể phân biệt đó là giai cấp bà- la-môn. Một Bà-la-môn phải là (1) xuất thân cao quý (anh ta có thể truy nguyên tổ tiên bảy đời bên cha và bên mẹ của mình); (2) một bậc thầy (dạy ba bộ Vệ Đà, những thuật ngữ liên quan, sách vở về nghi lễ, ngữ pháp... và những truyền thống lịch sử); (3) tướng mạo đẹp đẽ, có nước da của Bà-la-môn; (4) có đạo đức, và (5) thông minh (ở phương diện biểu diễn nghi lễ). Đức Phật hỏi một người trong số họ có thể rút ngắn sự liệt kê này hay không, và được đồng ý (ít nhất là người được hỏi), rằng nước da là không cần thiết, có thể lược bỏ, kinh Vệ Đà và chỗ xuất thân có thể lược bỏ, nhưng đạo đức và trí tuệ là cốt lõi (có lẽ theo quan điểm của Bà-la-môn giáo, một Bà-la-môn không cần dạy dỗ nhưng phải biết biểu diễn nghi lễ). Thế rồi đức Phật đưa đạo đức vào những nguyên tắc Phật giáo để giải thích. Đối với trí tuệ trong nghi lễ, Ngài thay bằng từ ‘huệ giải’ của Phật giáo, và giải thích thành tứ thiền định và ‘ba minh’ của sự giác ngộ (ba minh là tri thức khoa học, dĩ nhiên được thay thế bằng ba ‘nhận thức’ trong Vệ Đà của Bà-la-môn giáo).
10. D No. 4, T 1 No. 22.
Chúng ta đã hiểu thần học của Bà-la-môn là không đúng, và nên dùng pháp Duyên khởi khoa học thay thế. Như nghi lễ, cúng tế, đức Phật giải thích cho các vị vua nên dùng tiền của vào việc đầu tư kinh tế, như trong câu chuyện đã kể về vua Đại Phương Quảng. Tuy nhiên, câu chuyện này tiếp tục rằng khi vua Đại Phương Quảng thực thi chính sách đó, bạo loạn chấm dứt, mang lại phồn vinh thịnh vượng và cất chứa vào quốc khố, sau đó nhà vua vẫn mong muốn tổ chức đại đàn hiến tế theo nghi thức truyền thống. Dưới sự hướng dẫn của vị quốc sư, việc trai đàn trở thành một lễ hội lớn cho toàn bộ dân chúng vui chơi. Lễ hội do nhà vua bỏ tiền, không thu thuế hoặc không nhận sự đóng góp của mọi người. Không có súc vật bị giết để hiến tế, thậm chí cây cối không được chặt phá vì mục đích cúng tế; chỉ có bơ, dầu mè, khuôn đậu, mật ong và đồ tương tự làm lễ vật hiến cúng. Không sử dụng bạo lực đối với nô lệ và người làm thuê trong khâu chuẩn bị: tất cả công việc đều dựa vào căn bản của sự tự nguyện, việc gì không thuộc tự nguyện không làm. Đức Phật nói thêm, hiến cúng lần này có thể thỏa mãn lòng thành của mọi người tổ chức trai đàn của Bà-la-môn giáo, mặc dù bị cải cách, bài trừ bạo lực giết tế. Có một loại cúng tế cao cấp là thành lập quỹ từ thiện lâu dài để cúng dường những vị xuất gia tu hành phạm hạnh, tốt hơn nữa là xây dựng chỗ ở cho cộng đồng Tăng-già (các vị tỷ-kheo), tốt hơn nữa là quy y trở thành Phật tử, thọ trì các nguyên tắc đạo đức (cư sĩ tại gia), tốt hơn nữa là phát tâm xuất gia trở thành tỷ-kheo và đạt đến tịch tịnh Niết bàn.
từ những nhận xét ở một bản kinh khác trong Trường A-hàm,11 xem ra ở thời đức Phật, có một số Bà-la-môn sống xa hoa, áo quần sang trọng, ăn uống cao lương mỹ vị, kẻ hầu người hạ, sống trong cung điện... Ở trường hợp này, đức Phật cho rằng thật đáng sợ khi so sánh với những bậc tiền hiền thời biên soạn Vệ Đà (tham khảo nguồn gốc của Bà-la-môn đã đề cập ở trên trong phần sự tiến hóa của xã hội). Thời này, Bà-la-môn sống như tầng lớp quý tộc, thực tế nhiều người được vua phong tặng đất đai của hoàng gia, như xã ấp (trong kinh này có nói về một Bà-la-môn như vậy, ở cuối kinh khác có đề cập một vị, trong câu chuyện của vua Đại Phương Quảng có nói đến một vị nữa, và nhiều Bà-la-môn khác chưa kể đến). Bà-la-môn cổ đại có lẽ là những bậc tiên tri, nhưng hiện nay Bà-la-môn chỉ học được vài bài thơ và kinh cầu nguyện của Vệ Đà (mantras: thần chú) từ xưa truyền lại, không thể trở thành tiên tri.
11. D No. 3, T 1 No. 20. Những bản thiếu tiếng Phạn có trong Turfan tr.
Tuy nhiên, liên quan đến quan điểm chính của Bà-la-môn, chủ trương rằng họ và người khác trên bản chất chẳng có gì khác nhau. Họ tuyên xưng chính họ ‘Trong sạch’ (śuddhi) thì đó là sự lạm xưng,12 cũng như tự cho họ là ‘Trắng’ (śukla), còn cho những giai cấp khác là ‘đen’ (kṛṣṇa). Theo đức Phật, tất cả bốn giai cấp này ‘Trong sạch’ như nhau, và quan trọng là dựa vào hành vi của họ mà thôi. Tuy đức Phật phủ nhận những đặc quyền đòi hỏi của Bà-la-môn, là để thay đổi toàn bộ cách tư duy, nhưng Ngài hy vọng hóa giải cho Bà-la-môn, hồi phục tư cách của họ theo lịch sử, phù hợp với tính duyên sinh của họ. Thực tế là đồng hóa Bà-la-môn thành Sa-môn: Nếu ai đơn thuần sống trong thiền định và trì giới, hành vi rộng lượng và hòa nhã, ta xác nhận đó là Bà-la-môn. Tên gọi ‘Bà-la-môn’ được giữ lại, và những thuật ngữ khác như ‘hiến tế’ vẫn tiếp tục sử dụng nhưng nội dung đã sửa đổi cho phù hợp với những nguyên tắc đạo đức của Phật giáo. Trong tương lai Bà-la-môn và Sa-môn sẽ đồng nghĩa và tất cả những người gia nhập tầng lớp này, tu tập theo mục đích đạo đức cao thượng, tìm kiếm giác ngộ và Niết bàn, đều trải qua đời sống phạm hạnh thanh tịnh (đời sống của Bà-la-môn) như đức Phật đã miêu tả.
12. M No. 93, T 26 No. 151.
Có thể không cần nói, đức Phật không bao giờ mượn chính quyền hay thủ đoạn, Ngài giảng giải cho mọi người biết dựa vào kinh nghiệm và quán sát để hiểu về chân lý mà Ngài đã khám phá. Nếu vua chúa muốn trị vì lãnh địa của họ bằng nguyên tắc chứ không phải bằng bạo lực, thì Ngài tiến hành thảo luận triệt để liên hệ với loại giáo lý nào là chân thật trong điều kiện tự do tư tưởng và ngôn luận hoàn toàn. Trong những đoạn đối thoại với Bà-la-môn có nhiều chứng cứ cho thấy thực tế đức Phật có thái độ rộng lượng đối với Bà-la-môn, Sa-môn, hay tín đồ của những trường phái khác như Kỳ-na giáo.13
13. M No. 56 No. 133 (một tín đồ tại gia của Kỳ-na giáo sau khi cảm phục và quy y đức Phật, được khuyên tiếp tục hỗ trợ những tu sĩ của Kỳ-na giáo); M No. 101, T 26 No. 19; M No. 35, T 99 quyển 5, No. 8.