Chúng ta đã khảo sát qua quan điểm của đức Phật về xã hội và những lời khuyên của đức Phật đối với chính quyền, bây giờ chúng ta có thể khảo sát đức Phật đã có những lời dạy gì đối với hàng cư sĩ tại gia, những người không dễ dàng từ bỏ thế tục để xuất gia, nhưng họ phát tâm quy y trở thành nam cư sĩ (upāsakas) và nữ cư sĩ (upāsikās) trong tín chúng của Phật giáo.
Trong Trường A-hàm còn có một bản kinh14 mà trong đó đức Phật khuyên một người tại gia đang thực hành theo nghi thức bà- la-môn giáo vào mỗi buổi sáng. Lúc ở gần thành Rājagṛha, một hôm đức thế tôn trên đường đi vào thành khất thực, Ngài thấy một gia chủ lễ lạy sáu phương (bốn phương chính, phương trên và dưới), tóc và áo quần còn ướt (sau khi tắm gội bằng lễ nghi). Đức Phật hỏi anh ta tại sao phải làm điều này, anh ta trả lời rằng cha của mình lúc gần chết đã dặn làm như thế. Đức Phật bảo với anh ta rằng theo ‘pháp’ của những bậc thánh (tức những bậc hiền đức) không lễ lạy sáu phương với cách như vậy.
14. D No. 31, T 1 No. 16 (cũng có trong T 26 No. 135 và những kinh văn tiếng Trung Quốc khác).
Một đệ tử của bậc thánh (srāvaka: thanh văn, ở đây là Phật tử tại gia; thỉnh thoảng thuật ngữ này nói về những vị tỷ-kheo, nhưng đức Phật thường nói về một Phật tử tại gia hay một vị tỷ-kheo đang còn học) phải tôn trọng cha mẹ, thầy (ācārya), vợ và con, bạn bè, người làm thuê (nô lệ và người giúp việc), Sa-môn và Bà-la-môn tương ứng tuần tự theo sáu phương này (Đông, Nam, tây, bắc, Dưới và trên). Để chuẩn bị tốt cho công việc lễ lạy các phương, người ấy phải tuân thủ những nguyên tắc (pháp) hướng người ấy đến ‘chiến thắng’ ở cả hai thế giới (kiếp này và kiếp sau) và sau khi chết tái sinh ở cõi trời. Trước hết, người ấy phải từ bỏ bốn hành vi xấu ác. Thứ hai vị ấy không được làm việc xấu ác ở bốn môi trường (sthānas). Thứ ba vị ấy không được say đắm vào sáu phóng túng rồi đánh mất tài sản. Như vậy, vị ấy phải tránh xa 14 loại ác hạnh. Sau đây, đức Phật giải thích tường tận tất cả chúng.
Bốn hành vi xấu ác ngược lại với nguyên tắc đạo đức và xã hội, đó là những nguyên tắc mà chúng ta được thấy qua lời khuyên bảo của Ngài đối với xã hội: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà hạnh và không nói dối.
Ở trong bốn môi trường thực hiện các hành vi xấu ác là do (1) ‘tham muốn’ (chanda: tức là mong muốn và khát vọng của một người; thuật ngữ này ở đây có lẽ được giản lược từ thuật ngữ kāmacchanda, thèm muốn dục lạc); (2) sân hận (hoặc ‘oán giận’, tiếng Phạn: doṣa, tương đương với từ cổ là dveṣa: sân nhuế); (3) si mê (moha: ngược lại với hiểu biết); và (4) sợ hãi (bhaya).
Kinh này tiếp tục giải thích chi tiết về sáu phóng túng làm mất tài sản. Môi trường phóng túng (pramāda) thứ nhất là thói quen (anuyoga: thực hiện) uống các loại chất say nghiện (rượu). Có sáu điều không hay đối với việc phóng túng này, có thể thấy được (tức thấy ngay, tức thì) sự mất mát (nguyên văn là ‘mất thu nhập’, nhưng ở đây không phải là bị phạt) về tiền bạc, gia tăng cãi vã, dễ sinh bệnh, mang lại tiếng xấu, mất chín chắn, giảm trí nhớ. (Nói cách khác đó là những cách thể hiện sự phóng túng, hậu quả trước hết là trực tiếp và gián tiếp mất mát của cải; từ ‘Trước hết’ ở đây đơn giản có nghĩa là tiêu tiền phung phí).
Điều không nên làm thứ hai là thường đi lang thang trên những tuyến đường không hợp lúc. Điều này cũng có sáu điều không hay: bản thân không được bảo vệ và không an toàn, vợ và con cái của anh ta cũng vậy, tài sản của cải cũng vậy, có thể bị hoài nghi liên quan đến những vụ án phạm tội, phát sinh sự dối trá, gặp nhiều chuyện không hay (không thể dự tính trước).
Điều không nên làm thứ ba là đam mê hội hè (abhi-car nghĩa là làm việc sai quấy, sa đọa, tà hạnh, do đó từ abhicaraṇa có nghĩa là ‘say mê’; hội hè tương đương với từ samājas nghĩa là ‘tụ hội’ vốn không hẳn có nguy hại). Điều này cũng cho biết có sáu việc không hay, có lẽ chỉ nêu lên ý nghĩa ngược lại. Đó là một người (thường) hỏi xem ở đâu có nhảy múa, ca hát, tấu nhạc, ca ngâm thơ, nhấn nhá (du dương), đánh trống (một loại trống kumbhatūṇa, có lẽ nhiều người cùng đánh trên một chiếc trống lớn, ngày nay vẫn còn ở tích Lan (Ceylon)). Sớ giải của thượng tọa bộ giải thích ở đây rằng một người muốn đi ra khỏi xóm làng hay thành thị để tham dự lễ hội ngày hôm sau, thì người ấy dùng trọn ngày hôm ấy để chuẩn bị áo quần, nước hoa, vòng hoa... cho chuyến đi; lễ hội có thể diễn ra nhiều ngày, do đó công việc của người ấy bị gián đoạn nghiêm trọng. Hay nói cách khác, tham gia lễ hội ở đây đối với một cư sĩ tại gia không vi phạm đạo đức (đối với tỷ-kheo và tỷ-kheo-ni tham dự thì không hợp), nhưng đi tham dự quá nhiều sẽ mang lại tổn thất về kinh tế.
Điều không nên làm thứ tư là đánh bạc, cá độ, đây cũng là một loại phóng túng. Đánh bạc, cá độ cũng có sáu điều không hay, rằng người thắng sinh thêm oán hận; người thua hối tiếc tài sản đã mất; thật sự tiền đã mất; lời lẽ của người đó không còn dè dặt giữa mọi người; bị bạn bè và người khuyến cáo chê cười; và không ai dám lấy làm bạn đời vì người đánh bạc, cá độ không thể bảo đảm cho vợ con.
Điều không nên làm thứ năm là kết bạn xấu. Sáu điều không hay của việc kết bạn xấu là: Trở thành kẻ đánh bạc, cá độ, phóng đãng, say sưa, tâm hẹp hòi, lừa đảo và bạo lực. Sau đó đức Phật còn dạy thêm về những người bạn xấu, trong đó có kẻ thù giả làm bạn, và chia chúng làm bốn loại: Loại người thấy cái gì cũng lấy, loại người chỉ nói miệng, loại người a dua nịnh hót, và loại người vô dụng. Loại thứ nhất là kẻ thù giả làm bạn có bốn trường hợp: anh ta thấy gì cũng lấy, anh ta muốn nhiều làm ít, anh ta làm gì là do sợ mà làm, anh ta đeo đuổi chỉ vì lợi lộc (cho chính anh ta). Cũng giống như người trước đây nói ngọt ngào (đáng lẽ anh ta đã đưa cho bạn nhưng rồi lại nói anh ta đã chuẩn bị đồ cho bạn - Sớ giải), về sau cũng ngọt ngào, anh ta chỉ cho bạn lời hứa hảo vô nghĩa, và đến lúc phải thực hiện, ngay lập tức anh ta giải thích rằng anh ta vừa mới bị tai nạn. Cũng vậy, người a dua nịnh hót chỉ biết ca ngợi việc xấu, chê bai việc tốt; trước mặt xun xoe, sau lưng phỉ báng. Cuối cùng là loại bạn vô dụng, tụ tập ăn uống, thường ngao du không đúng lúc, thích hội hè, đánh bạc, cá độ. Trong những bạn bè xấu này có kẻ thù ngụy trạng giả vờ làm bạn tốt, chúng ta sẽ khảo sát sau này.
Điều thứ sáu làm mất tài sản là do có thói quen lười biếng. Lười biếng có sáu điều không hay: Đó là mượn sáu lý do để chẳng phải làm gì, nếu để mất tài sản anh ta cũng không thể kiếm lại được. anh ta nói: “Quá nóng, quá lạnh, quá trễ, quá sớm, quá đói, quá no”.
14 việc xấu này lại được tóm tắt bằng kệ tụng, có lẽ cho dễ nhớ. Ở đây quan trọng việc gìn giữ tài sản rõ ràng là nền tảng không thể thiếu trong tất cả hành vi đúng đắn, cũng giống như chúng ta đã đọc đến những điều khuyên bảo về sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội, tất cả đều đáng chú ý và đều đáng nhấn mạnh, để bác bỏ luận điệu thường cho rằng Phật giáo chỉ dành cho hàng xuất gia, chỉ cho việc khổ luyện, hoàn toàn xuất thế gian và không liên quan đến những vấn đề xã hội, và tương tự như thế, cho dù để ca ngợi hay chỉ trích đều sai lầm. Tóm tắt những nguyên tắc này, chúng ta thấy gồm có: (1) những nguyên tắc về đạo đức, chúng được giảng giải trong nhiều kinh điển và hoàn toàn là những nguyên tắc của xã hội; (2) các trường hợp của hành vi xấu xa hầu hết đều tương tự ‘những pháp bất thiện’ làm chướng ngại con đường giải thoát và giác ngộ (đứng đầu là tham, sân và si; trong mối tương quan khác ở trên có nói về sợ hãi: Chẳng hạn như rừng hoang rùng rợn trong những câu chuyện về sự giác ngộ của đức Phật), và mặt khác chúng là những nguyên tắc đạo đức cá nhân (tuy ở đây thuộc về đời sống của hàng cư sĩ tại gia, nhưng họ dường như trực tiếp nhận được con đường đi đến Niết bàn, đồng thời cũng là sự khởi đầu tu tập của một vị tỷ-kheo, và có thể xem đây là sự chuẩn bị trên bước đường tu tập không còn chấp trước); (3) cẩn thận trong những tiêu chuẩn hành vi thuộc thế gian dẫn đến sự giàu có (cá nhân và gia đình) cũng là tiêu chuẩn thịnh vượng (artha), nhưng không phải là nguyên tắc (không phải là dharma hay pháp trong nghĩa công bằng, đạo đức, luân lý).
Bây giờ chúng ta khảo sát sáu mối quan hệ của con người tương ứng cho sự lễ bái sáu phương, mỗi nhóm người tương ứng mỗi phương, có năm trường hợp diễn ra.
Nghĩ đến một người con được sự nuôi dưỡng của cha mẹ, người con ấy phải phụng dưỡng cha mẹ, phải làm những việc thay thế cha mẹ, phải xây dựng gia đình (như trông coi của cải - Sớ giải), sau khi cha mẹ qua đời phải gánh vác sự nghiệp của gia đình (theo truyền thống), phải biết cho biếu (trên danh nghĩa của cha mẹ - Sớ giải của thượng tọa bộ).
Một người học trò phải ‘thể hiện’ sự lễ phép đối với thầy, phải đứng dậy chào (khi thấy thầy đến), phải học hỏi thầy (tức viếng thăm, xin thầy dạy bảo), chú ý lắng nghe thầy, vâng lời thầy, học tốt nghề mà thầy truyền dạy.
Một người chồng phải ‘thể hiện’ sự tôn trọng vợ, không được coi thường, phải trung thành, trao quyền cho vợ, biết mua trang sức cho vợ.
Phải tôn trọng bạn bè, bằng cách biếu quà, nói lời thân tình, giúp đỡ nhau, đối đãi như chính mình (khổ vui cùng chia sẻ), không được nuốt lời.
Phải tôn trọng người làm thuê và giúp việc, phân công theo khả năng từng người, cung cấp thức ăn và lương bổng, lúc bệnh phải chăm sóc họ, phải chia sẻ lợi ích có được đặc biệt với họ, cho họ nghỉ ngơi đúng giờ.
Phải tôn trọng Sa-môn và Bà-la-môn bằng những việc làm, lời nói và suy nghĩ tốt đẹp, mở cửa đón chào họ đến, cúng dường họ đồ dùng cần thiết.
Sáu nhóm người này phải luôn biết ơn bằng những việc làm thân thiện (anu-kamp), và có năm trường hợp cho mỗi mối quan hệ, ngoại trừ trường hợp cuối.
Cha mẹ phải ngăn chặn con cái làm việc xấu, hướng dẫn chúng làm việc tốt, cho chúng học nghề chân chính, tác hợp vợ chồng thích hợp, và giao tài sản đúng lúc.
Thầy cô phải hướng dẫn tốt học trò, hết lòng dạy dỗ, trao truyền hết nghề nghiệp cho học trò, hướng dẫn chúng kết bạn tốt và đồng nghiệp tốt, bảo đảm an toàn (bảo đảm nghề nghiệp kiếm sống) bất cứ ở đâu.
Làm vợ phải biết sắp xếp công việc (việc nhà), đối xử tốt với người giúp việc, trung thành, trông coi việc thu nhập, khéo léo và siêng năng trong công việc.
Bạn bè phải biết giúp nhau lúc khó khăn, bảo vệ tài sản lúc bạn bè sơ suất, là chỗ dựa khi bạn lo sợ, không bỏ rơi bạn lúc gặp hoạn nạn, quan tâm con cái của bạn.
Người giúp việc và nhân viên phải dậy trước chủ (arya), đi ngủ sau chủ, chỉ nhận đồ người chủ cho, làm việc tốt, bảo vệ uy tín và danh dự cho chủ.
Sự thể hiện đối với Sa-môn và Bà-la-môn có điểm khác biệt trong sáu tình huống trên chứ không phải chỉ có năm. Những vị này có trách nhiệm giúp người đó tránh xa điều xấu, hướng dẫn người đó làm việc tốt, biết thương yêu người khác (nguyên nghĩa là ‘tốt’, kalyāṇa), nói cho họ nghe những điều chưa từng nghe, làm rõ điều đã nghe, giảng giải con đường thác sinh lên cõi trời.
Áp dụng bốn nguyên tắc này để đem lại lợi lạc cho xã hội với cách thông dụng nhất, tuy mang hình thức tiêu cực nhưng có một ý nghĩa khuyên răn tích cực, chúng ta thấy rằng hệ thống những mối quan hệ này là những nguyên tắc hành vi xã hội chi tiết và cụ thể. Điều đáng chú ý ở đây là không có bất kỳ mối quan hệ nào với chính quyền hay vua chúa (mà những lời khuyên bảo này được nói ra ở vương quốc Ma-kiệt-đà, hơn nữa còn ở thủ đô của nó). Chúng ta cảm thấy xa lạ khi nói về bầu không khí tôi trung và nghĩa vụ của người dân đối với xã hội phong kiến. Thực tế, cách nghĩ này dường như là đời sống dân chủ ở một thành phố hoặc một nước cộng hòa, chẳng hạn như nước của bộ tộc thích Ca (Śākya) hoặc Bạt-kỳ, hoặc ở một xã hội hoàn hảo từng được cho đã tồn tại trước thời tuyển cử của vị vua đầu tiên (trước thời thành lập nhà nước?). Với cách nghĩ này thì nhà nước có lẽ chỉ liên quan đến việc bảo hộ cho bốn nguyên tắc chung này, tức chính phủ của sự công bằng, nhận lại sự ủng hộ bằng thuế.
Để hoàn thành sự khảo sát của chúng ta về cá nhân ở xã hội của những người tại gia hay thế tục trong những kinh điển này, chúng ta phải quan sát những người bạn chân thật hay tốt (suhṛd) trong bốn giai cấp ngược lại với ‘những kẻ thù giả làm bạn’ mà đức Phật đã chỉ ra như đã nói ở trên. Bốn loại bạn này là người luôn biết giúp đỡ bạn bè, vui khổ cùng chia, chỉ cho bạn biết điều lợi ích, và tương trợ lẫn nhau. Có được những người bạn tốt này là nhờ vào bốn môi trường. Người bạn luôn biết giúp đỡ bạn bè là người bạn kéo bạn ra khỏi chỗ phóng túng, cứu tài sản của bạn bè khi bạn bè rơi vào phóng túng, là chỗ dựa cho bạn bè lúc lo sợ (giống với nghĩa cử đền đáp trong mối quan hệ bạn bè ở trên), lúc gặp việc cần làm anh ta ủng hộ gấp bội nhu cầu đòi hỏi. Người bạn vui khổ cùng chia là người giữ kín cho bạn, giữ bí mật cho bạn, không bỏ rơi bạn khi hoạn nạn (tham khảo ở trên), thậm chí vì bạn bè hy sinh cả chính mình. Còn người bảo cho bạn biết điều lợi lạc (như Sa-môn hay Bà-la-môn) là đưa bạn tránh xa tội lỗi, hướng dẫn bạn điều tốt đẹp, nói cho bạn nghe điều chưa từng nghe, trình bày con đường hướng đến cõi trời. Người bạn chân thật là người ấy cảm thấy buồn khi bạn gặp hoạn nạn, và cảm thấy vui khi bạn gặp điều may, khiển trách người nói xấu bạn, ca ngợi người tán dương bạn. Ở mỗi phần của kinh này đều dùng các kệ tụng để nói lại nội dung tương tự.
Đức Phật dạy rằng một tình bạn tốt là toàn bộ ‘đời sống tốt đẹp’ (phạm hạnh) của một vị tỷ-kheo (tr. 160 ở trên), vì thế ở đây tình bạn được nhấn mạnh nhất trong đời sống của người tại gia. Đặc biệt trong tiêu chuẩn tình bạn, chúng ta chú ý rằng sự chế định tiêu chuẩn xã hội căn bản là xem tất cả chúng sinh giống như chính mình không tách rời trong tất cả lời dạy của đức Phật cho xã hội (xem tr. 161 ở trên).