Bộ phận hay truyền thống thứ ba của Ba tạng giáo lý là Luận tạng (Abhidharma), thuật ngữ này có nghĩa gốc ‘liên quan đến giáo lý’ (concerning the doctrine) và về sau được dùng nghiên cứu hệ thống giáo lý. Bộ phận này của Ba tạng giáo lý có sự khác biệt rất lớn giữa các bản tu chỉnh của nhiều trường phái. Trên thực tế, rõ ràng rằng văn phong của Luận tạng được trau chuốt đến tuyệt đỉnh. Luận là tác phẩm hệ thống của những trường phái được rút tỉa từ bộ phận chính của những giáo lý do đức Phật thuyết ra, mà những bài giáo lý này đã được học thuộc lòng hoặc ghi chép lại chính xác, tập thành một chỉnh thể của giáo lý. Khi chuẩn bị biên soạn loại sách hệ thống này, các bộ phái bắt đầu chọn các quan điểm đặc thù với những lý giải khác nhau, do đó có một số bộ luận thật sự bao gồm cả những tranh luận bác bỏ quan điểm của trường phái đối lập. Tuy nhiên, vẫn có một lượng lớn tiếng nói chung mà các trường phái chia sẻ, là những tài liệu đại diện cho đa số được trích xuất từ giáo lý và sắp xếp theo từng chủ đề.
Hầu hết ghi chép về lần kết tập kinh điển đầu tiên đều bảo rằng bao gồm cả phần Luận tạng, ngụ ý rằng Luận tạng đã được biên soạn và lưu hành trong các bộ phái trước lần kết tập này. Mặt khác, một số ghi chép cho biết, những điều gọi là mātṛkā có đọc lại tại lần kết tập đó. Mātṛkā có nghĩa là ‘hình thức cơ bản’ (matrix) hoặc danh mục của một chủ đề, một tổ hợp chỉ ghi chép các đầu đề của một chỉnh thể học thuyết. Có nhiều bản luận hiện còn ban đầu chỉ ghi lại theo hình thức mātṛkā như vậy, trông giống bảng mục lục, hoặc tiêu đề của từng chương. Luận (Abhidharma) vào thời kỳ đầu xem ra rất có khả năng hình thành từ một số tổ hợp tiêu đề viết theo hình thức cơ bản này, cũng có thể do chính đức Phật đưa ra chỉ dẫn cô đọng một cách hệ thống cho hàng đệ tử, sau này mới phát huy đầy đủ, trở thành những bộ luận hoàn chỉnh. Từ những văn bản của Luận tạng hiện còn có thể gợi ý cho chúng ta biết rằng một số được viết theo hình thức căn bản của mục lục, nhưng cũng khó xác định tất cả mục lục được biết đó có bao nhiêu danh mục sớm nhất hoặc trước thời phân chia bộ phái.
Người viết tập sách này đã nghiên cứu vấn đề của hình thức căn bản này trong bài giới thiệu cho ấn bản tác phẩm Pali Manual of Abhidharma, được gọi là Mohavicchedanī (Sách học vi diệu pháp tiếng Pali), thật ra đây là sự dẫn giải về Mātṛkā (luận mẫu).8 Trong tất cả các nguồn cổ điển được tìm thấy cho biết có bảy bộ luận, ban đầu có thể được biên tập từ những Mātṛkā này. Có lẽ điều cần chú ý nhất về bộ phận này cho thấy vị trí ở một bài thuyết giảng, đó là kinh Đại bát niết bàn (Mahāparinirvāṇa Sūtra) trước lúc đức Phật nhập diệt khoảng mấy tháng.9 trước lúc nhập Niết bàn không lâu, đức Phật triệu tập hàng đệ tử và nói cương yếu giáo lý mà Ngài đã chứng ngộ và phó chúc dặn dò họ phải nghiên cứu, áp dụng tu tập để đạt đến ‘đời sống tốt đẹp nhất’ hay ‘phạm hạnh’ (the best life), đó là Con đường của Phật tử (Buddhist Way), phải hết lòng vì lợi ích và hạnh phúc của hết thảy chúng sinh. bảy bộ luận chính xác đi theo cương yếu giáo lý này. Ở đây, chúng ta lại có một chỉ dẫn khác, thông thường tất cả bộ phái vẫn còn những kinh điển liên quan, cho thấy yếu nghĩa của Phật giáo Nguyên thủy là gì.
8. P. T. S., London, 1961, tr. xix trở xuống, đặc biệt tr. xxi. Tái bản 1994.
9. Văn học thượng tọa bộ bằng tiếng Pali: D II 120; trường phái Nhất thiết hữu bộ bằng tiếng Phạn: MPS (Waldschmidt), tr. 224; văn học tiếng Trung Quốc ở T 1, No. 2...