Sử gia người Tây Tạng Tāranātha đã nói chi tiết về sự hưng khởi của Phật giáo Đại thừa,34 hầu như chỉ còn duy nhất một sự ghi chép như thế. Đáng tiếc, ông ta dường như đã căn cứ trên những tình huống chồng chéo, và không nghi ngờ gì đã gặp phải khó khăn rất lớn khi sắp xếp những tài liệu không đồng nhất này thành một chỉnh thể hoàn hảo. Đối mặt với số lượng lớn phả hệ của các vương triều nhiều giai đoạn khác nhau ở Ấn Độ, ông đã cố gắng xây dựng một niên biểu lịch sử đối chiếu đồng bộ giữa chúng và còn phối trí nhiều chứng cứ ghi chép đáng tin cậy của những bậc thầy trong Phật giáo sống cùng thời. Công việc xác định nhân vật và niên biểu của ông ta có một vài chỗ xa với sự thật, do đó có xu hướng khả nghi toàn bộ tác phẩm của ông. Tuy nhiên, đối với công việc biên soạn như thế này thì không thể phán đoán hời hợt, những phần liên tiếp nhau phải phân chia thành nhiều bộ phận riêng biệt và kiểm chứng với những nguồn tư liệu khác nhau tương ứng giai đoạn của chúng.
34. Chương XIII trong bản dịch của Schiefner.
Sử gia Tāranātha đặt sự hưng khởi của Đại thừa sau sự kiện của vua Kaniṣka I và các hoàng tử của ông (không cử ra thụy hiệu, nói chung từ những nguồn tài liệu khác mà chúng ta được biết là vua Vāsiṣka) và một số vị thầy của Nhất Thiết Hữu Bộ (Vasumitra II, Ghoṣaka) sống cùng thời với những vị vua ở nước Quý Sương (Kuṣāṇa). Trong niên biểu này có đề cập đến một vị thầy Phật giáo tên là Aśvagupta sống ở giai đoạn con của vua Kaniṣka tại Hoa Thị Thành (Paṭaliputra). Sau đó có nói về một ‘vị vua sống ở phía tây ủng hộ Phật giáo’ là Lakṣāśva (thụy hiệu này không xác định là vua nào như đã biết, và chữ ‘phía tây’ hầu như rất mơ hồ, mặc dù không lâu sau đó chúng ta thấy điều đó có ở nước Saurāṣṭra. Liên hệ mối tương quan với nhau có lẽ là một vị vua kế vị ‘con trai của vua Kaniṣka’, vị sử gia này sử dụng thụy hiệu mà chỗ khác không chép như thế, vì một vị vua thường có nhiều tên gọi, với trường hợp này có lẽ là vua Huviṣka, năm 106 TL; khả năng khác là một trong những thái thú Kṣaharāta của nước Aparānta ở nghĩa rộng, vị này dường như là người Śakas được những vị vua nước Kuṣāṇa tiến cử35). Ở giai đoạn này có một vị trưởng lão tên là Nanda đã truyền bá giáo lý Đại thừa ở nước Aṅga, rồi ‘bỗng nhiên’ xuất hiện vô số đại sư (Avitarka và những vị khác) của Đại thừa ở nhiều nơi khác nhau, họ đã thọ giáo từ đức Quán tự tại (Avalokiteśvara, một vị Bồ Tát ở thế giới Cực lạc của đức Phật A-di-đà), và thọ giáo từ Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) và những vị Bồ Tát khác. Đồng thời, một số kinh điển Đại thừa xuất hiện, mở đầu với bộ kinh tập lớn Đại bảo tích, hầu hết những bộ kinh này được mang ra từ thế giới loài rồng (Long cung ở dưới đất), một số khác từ những thế giới loài trời. Vua Lakṣāśva đã trở thành người hết lòng ủng hộ trào lưu mới, cho xây dựng nhiều chùa và cổ vũ những người học đạo, đề ra chương trình in ấn truyền bá những kinh điển mới. Những kinh điển này sau đó được chuyển sang Nālandā (tư liệu bộ phận này của sử gia Taranātha được viết ở đây), là nơi mà tôn giả Xá-lợi-phất đã sống và sau đó trở thành trường Đại học Phật giáo lớn nhất Ấn Độ lúc bấy giờ.
35. Ví dụ như vua Nahapāna; nhưng có thể là một vị vua của vương triều Sātavāhana chẳng hạn như vua Gautamīputra.
Một số chúng ta không tin thế giới rồng ở dưới đất và đã nghiên cứu những chứng cứ dẫn ở trên, tốt hơn nên đưa nguồn gốc của hầu hết kinh điển Đại thừa về Āndhra. Chúng ta sẽ thấy phù hợp hơn với phiên bản của kinh Bát Nhã, điều này nói lên rằng kinh này được biết đầu tiên ở phía nam, sau đó được truyền sang phía tây, rồi sau đó lên phía bắc.
Sử gia Tāranātha lưu ý rằng, những người theo các trường phái Phật giáo thời kỳ đầu hầu như đã bác bỏ Đại thừa, vì đó không phải những lời đức Phật thuyết ra (không nằm trong Ba tạng giáo lý) và rằng người theo Đại thừa phân bố rất ít trong cộng đồng Phật giáo. Ở đây chúng ta có thể thêm một câu, căn cứ vào những chứng cứ hiện có cho thấy tín đồ Phật giáo ở Ấn Độ cho dù ở thời điểm nào đều đi theo các trường phái nguyên thủy và ở đó Phật giáo Đại thừa luôn là trào lưu tư tưởng của một trường phái nhỏ mới: Phật giáo Đại thừa chỉ phát triển ở những quốc gia ngoài lãnh thổ Ấn Độ (Trung Quốc, Tây Tạng và những nước ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng Đại thừa) và hoàn toàn thay thế Phật giáo trước đó.
Sau đó, vào thời vua Candanapāla của nước Aparaāntaka (vị vua này có lẽ sống cùng thời với vua Kaniṣka II, năm 119 TL),36 xuất hiện tỷ-kheo Rāhulabhadra37 đã theo học giáo lý Đại thừa với đại sư Avitarka và những vị thầy khác, lập nên một trường phái triết học Đại thừa có tên gọi là phái Trung Quán (Madhyamaka). Từ đó, nhiều kinh điển mới ra đời. Danh tiếng ban đầu của những vị thầy này rất nhỏ, nhưng sau họ xuất hiện một triết gia lớn ở Nālandā, là Long Thọ (Bu-ston, II, tr. 123, cho rằng vị triết gia này là học trò của đại sư Rāhulabhadra).
36. Liên quan đến vua Candana và Kaniṣka, xem Lévi, JA, 1936, tr. 75 trở xuống.
37. Tāranātha, Chương XIV.