Vào thế kỷ VII, Pháp Xứng (Dharmakīti), có lẽ sống cùng thời với Jinendrabuddhi vì họ dường như không thấy có sự trích dẫn qua lại)1 đã lấy luận thuyết của Trần Na và viết lại toàn bộ luận thuyết này, tuy nhiên tác phẩm chính của Pháp Xứng được trình bày trong một hình thức khiêm tốn như kiểu chú thích chứ không phải bổ sung về Tập lượng luận. Mục đích của vị luận sư này là trả lời tất cả phê phán và giải quyết những khó khăn nảy sinh trong lĩnh vực này từ tác phẩm đi đầu của luận sư Trần Na. Thành công của Pháp Xứng ở lĩnh vực này chính là bảy bộ luận, được xem như văn bản chính quy, về sau được hầu hết nhà luận lý học Phật giáo lấy làm nền tảng căn bản cho việc nghiên cứu về Nhận thức luận, còn những tác phẩm của luận sư Trần Na lại ít được quan tâm hơn. Chắc chắn Pháp Xứng là một trong những nhà triết học lớn nhất của thế giới quyền uy ở lĩnh vực này.
1. Tuy nhiên Hatori gợi ý rằng Jinendrabuddhi đã căn cứ vào pratyaṣābhāsa (lý luận chính lượng) của Pháp Xứng (Miscellanea Indologica Kiotiensia, 6-7, 1965, tr. 124.
Lượng luận thích (Pramāṇavārttika) của Pháp Xứng là bộ chú giải và bổ sung rất nhiều mà chúng ta vừa đề cập, gồm bốn Phẩm và không trực tiếp đi theo Trần Na. Có lẽ Jinendrabuddhi đã viết bản sớ giải hệ thống trực tiếp miêu tả bằng ngôn ngữ chân thật về những tác phẩm của Trần Na và công nhận như những tiêu chuẩn, do đó Pháp Xứng tự kiềm chế một cách hợp lý để chuyên tâm với những thảo luận mới nhưng cũng trùng tuyên lại và làm mới công thức, dường như đây là điều mong muốn của ông. Luận sư bắt đầu (theo thứ tự này thì sự phân chia chương tiết thường được cải tiến và đã trở thành vấn đề tranh luận) với chủ đề về tỷ lượng (đối với chính nó, tự tỷ lượng), có lẽ là điều kiện đầu tiên đối với tất cả thảo luận về phương pháp nhận thức, một đòi hỏi bắt buộc đối với tính chất suy lý. Đối với tất cả tỷ lượng, vị luận sư này nhận thấy chúng đều dựa trên tính đồng nhất (‘tự tính’) hoặc tính nhân quả (dùng quả để suy ra nhân của nó). Ngược lại, chúng có thể ở tính phủ định (dựa trên ‘vô tri giác’). Hay nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng tất cả tỷ lượng vừa là tính phân tích (biện nhân và chủ đề chính thực tế cho thấy cùng một đối tượng, hoặc đặc tính của một đối tượng và một bộ phận của nó) hoặc tính tổng hợp, hoặc chúng là sự phủ định của những cái đó. Thảo luận về tính đồng nhất tự nhiên dẫn đến thảo luận giải thích về ý nghĩa của từ ngữ và bộc lộ ‘sự loại trừ cái khác’: Đây là đối tượng của sự nhận biết cũng như của ngôn ngữ và là nền tảng của sự suy luận (tỷ lượng).
Tác dụng của tỷ lượng được cho là có thể làm một người hoàn thành hành động để đạt đến nhiều mục đích. Hành động hoàn thành là mục đích nghiên cứu về toàn bộ tiến trình nhận thức.
Phẩm thứ hai liên quan đến Nhận thức luận nói chung, một phương thức nhận thức (hữu hiệu) được hạn định như sự hiểu biết trong quá trình nhận thức mà nó không mâu thuẫn với kinh nghiệm và tính chính xác của nó, thông qua thực tiễn mà hiểu được và phù hợp với Bốn sự thật cao quý.
Cảm giác (hiện lượng) (chủ đề của Phẩm thứ ba) được định nghĩa là cảnh giới không tưởng tượng phân biệt và không vọng tưởng. Nó là ‘kết quả’ của thật tính. Cảm giác (hiện lượng) được kiến lập chỉ bởi chính nó, chỉ dựa vào sự giác tỉnh của kinh nghiệm giác quan khi chúng ta hoàn toàn không tư duy. Chúng ta không thể cảm giác đồng thời cảnh giới đặc thù hơn một lần, cũng không thể cảm giác được bất kỳ mối quan hệ nào giữa những kinh nghiệm của chúng ta. Cảm giác thuộc về tự tính (tổng tướng là đối tượng ‘bất liễu nghĩa’ của tỷ lượng). Đối tượng của cảm giác là cực kỳ đặc thù, đối tượng chân thật, thật tướng tuyệt đối. Đây được gọi là ‘chân thật’, ‘liễu nghĩa’, vì nó ‘đủ hiệu lực’, nó sinh ra các kết quả (ấn tượng).
Tha tỷ lượng (được thảo luận ở Phẩm thứ tư) là sự thông báo cho người khác biết về ba đặc tính của biện nhân có hiệu lực. Nó giống với ba chủng loại của tỷ lượng đối với chính nó (‘tự tính’, ‘kết quả của suy lường’, ‘phi tưởng’) và còn có hai ‘phẩm loại’ phụ thuộc nó được sinh khởi từ phương pháp đồng nhất và khác biệt. Ở đây có sáu hình thức, nhưng luận sư Pháp Xứng đã tiến hành thêm một bước, chia tỷ lượng phủ định thành nhiều mục con, cuối cùng (trong một bộ luận khác) nó trở thành mười một loại, sự phủ định của tính đồng nhất, sự phủ định của kết quả, sự phủ định của nguyên nhân, sự phủ định của ‘tổng nhân’, sự kết hợp của những điều này và sáu điều kiện hiệu lực.
Những tác phẩm khác của Pháp Xứng hầu hết lặp lại tác phẩm Lượng luận thích (Pramāṇavārttika) hoặc một số bộ phận của nó, nhưng đối với Tha tương tục thành tựu luận (Santānāntarasiddhi) thì được giải thích riêng biệt như một chuyên khảo về vấn đề triết học đặc thù: Tỷ lượng tồn tại trong tâm của người khác hơn là trong chính người đó (tức phản đối lập trường của Duy ngã luận). Quan sát hành vi có mục đích của chính chúng ta đều được dẫn dắt bởi lý trí (tức hoạt động tâm lý), khi chúng ta nhìn thấy hành vi tương tự từ người khác chúng ta có thể liên hệ rằng những điều này cũng được dẫn dắt bởi lý trí, hay nói cách khác tâm thức của người khác tồn tại.
Lập luận của Pháp Xứng thật sự có chỗ khó hiểu và nhiều khả năng mang ý nghĩ hàm súc. Chính vị luận sư không viết đầy đủ mỗi luận điểm đã đưa ra hoặc ám chỉ, mà để lại cho đệ tử của ông tiếp tục công việc này. Trong những vị đệ tử đó có Devendrabuddhi đã viết bộ chú sớ về Phẩm thứ hai và bốn của tác phẩm Lượng luận thích (Pramāṇavārttika), bản thân Pháp Xứng đã có chú giải Phẩm thứ nhất. Một đệ tử của Devendrabuddhi là Śākyabuddhi sau đó đã viết tác phẩm giải thích bộ luận này của Pháp Xứng về Phẩm thứ nhất, đồng thời giải thích mới từ Phẩm hai đến Phẩm bốn, như vậy đến đây hoàn thành công việc giải thích về tác phẩm bổ sung lớn này đối với tác phẩm Tập lượng luận (Pramāṇasamuccaya). Cuối thế kỷ VIII, Dharmottara đã biên soạn những tuyệt phẩm chú giải về các tác phẩm thuộc tư tưởng Nhân minh của luận sư Pháp Xứng độc lập và toàn diện hơn về tác phẩm Lượng quyết trạch luận (Pramāṇaviniścaya) và Chính lý nhất trích (Nyāyabindu), ngoài ra còn năm chuyên khảo thảo luận về những chủ đề như sự loại biệt. Thầy của Dharottara là Arcaṭa hay Dharmākaradatta đã có giải thích về Nhân nhất trích luận (Hetubindu), một nghiên cứu về biện nhân bao trùm phần căn bản của Phẩm thứ nhất của Lượng luận thích (Pramāṇavārttika) và đã viết ra hai tác phẩm chuyên khảo khác, trong đó Nhân minh nhị phần thành tựu luận (Pramāṇadvivasddhi), chủ trương rằng chỉ có hai phương thức nhận thức, dường như giống với Nhân minh trung hữu luận (Pramāṇāntarbhāva), do một tác giả ẩn danh công bố năm 1969. Một vị thầy khác của Dharmottara là Śubhagupta cũng đã viết năm chuyên khảo khác, trong đó có một tác phẩm xây dựng thật tính của ngoại cảnh (ngược lại với trường phái Duy thức) và hai tác phẩm khác phê phán Mīmāṃsā và thần học phái Nyāya. Luận sư Śaṅkarānanda (thế kỷ IX), là tác giả của một tác phẩm xuất sắc, tuy chưa hoàn tất, chú giải Lượng luận thích (Pramāṇavārttika) phẩm I, có lẽ đã làm việc chung với ba triết gia truyền thống của Kinh lượng bộ ở Kaśmīra. Luận sư Durvekamiśra (khoảng năm 1000) đã biên soạn những tác phẩm chú sớ rất chi tiết và hữu ích về những bộ luận mà trong Chính lý nhất trích (Nyāyabindu) và Nhân nhất trích luận (Hetubindu) chỉ được đề cập đến, những bản luận này cùng với sớ giải của chúng hiện còn bằng tiếng Phạn, thậm chí ngày nay vẫn lấy đó làm công cụ tốt nhất cho việc nghiên cứu nhập môn đối với Nhận thức luận Phật giáo. Luận sư Jitāri (thế kỷ X? - có lẽ có hai hoặc ba tác giả cùng danh hiệu này), đã biên soạn những bộ sách giới thiệu ngắn gọn làm sách học và khảo cứu về đề tài này, dường như cũng được lưu hành trong Kinh lượng bộ. Như vậy, có lẽ tác phẩm Tarkasopāna (Bậc thang của Nhân minh) của luận sư Vidyākaraśānti (khoảng năm 1000), cũng là một bộ sách giáo khoa giản tiện cho người học môn này, dựa trên cơ sở gần gũi với lập luận trong Chính lý nhất trích (Nyāyabindu) và sớ giải của luận sư Dharmottara, nhưng bổ sung nhiều hình thức tỷ lượng phủ định từ lập luận của Durvekamiśra hoặc từ nguồn không được biết nào đó.
Như những điều được lưu ý ở trên khi giới thiệu về Trần Na, vị luận sư này có sự giao thoa tư tưởng với nhiều trường phái khác, nên họ đã hấp thu chúng với những điều chỉnh thích hợp. Luận sư Thanh Biện (Bhāvaviveka) của trường phái Trung Quán đã chấp nhận phương pháp logic của luận sư Trần Na, như chúng ta sẽ thấy ở dưới, và được nhiều triết gia dung hòa tiếp nhận, trong số đó luận sư Śāntarakṣita đã biên soạn bộ sớ giải về Tranh luận chính lý (Vādanyāya) của Trần Na ở những ‘tình huống thất bại’ trong biện luận và luận sư Kamalaśīla chú thích ngắn gọn về tác phẩm Chính lý nhất trích (Nyāyabindu). Về sau những triết gia có khuynh hướng trung hòa giữa trường phái Trung Quán, Ba-la-mật và Mật tông (Mantrayāna), chẳng hạn như Abhayākaragupta (thế kỷ XII), đã biên soạn những bộ luận chuyên khảo về tư tưởng Nhân minh (Pramāṇa).
Sau khi luận sư Pháp Xứng soạn thảo kỹ lưỡng luận thuyết này cực kỳ bao quát, một số học giả Đại thừa đã bổ sung, thậm chí toàn bộ những trước tác của ông. Trước hết là Prajñākaragupta (cuối thế kỷ VII), truyền thống Tây Tạng cho rằng vị luận sư này trung hòa giữa trường phái Trung Quán và trường phái Duy Thức, đã viết ra bộ sớ giải dài, vượt ra ngoài chủ đề hoặc được gọi là một ‘sự trang nghiêm’ (alaṅkāra) Phẩm II-IV của Lượng luận thích (Pramāṇavārttika). Vị luận sư này dùng thuật ngữ ‘pháp vô ngã’ (dharmanairātmya) của trường phái Trung Quán và những nhà tư tưởng Đại thừa phải dùng thêm thuật ngữ aparinirvāṇadharmatvāt (phi Niết bàn pháp tính) để giải thích thuật ngữ ‘người cứu độ’ (tāyin), nếu không nó chỉ có nghĩa không hơn kém rằng đức Phật đã tồn tại trong thế gian chỉ để khuyến hóa chúng sinh. Sự kết hợp của nhất thiết chủng trí (sarvākārajñatā) và Bồ Tát cho thấy đây là tư tưởng Đại thừa. Tuy nhiên, vị luận sư này không thể che giấu sự thật rằng luận sư Pháp Xứng đã đem Phẩm thứ nhất của Tập lượng luận (Pramāṇasamuccaya) đơn giản liên hệ với đức Phật và giáo lý về Bốn sự thật cao quý của Ngài... Khoảng giai đoạn này, luận sư Karṇakagomin của Đại thừa đã mở rộng bộ sớ giải của Śākyabuddhi về Phẩm thứ nhất của Lượng luận thích (Pramāṇavārttika). Một đệ tử của Prajñākaragupta là Ravigupta đã viết ra bộ sớ thích dựa trên tác phẩm sớ giải của Prajñākaragupta; nhà Đại thừa quyết liệt Jinamitra cũng viết sớ thích về bản sớ giải này (đầu thế kỷ VIII, Jinamitra quả quyết rằng Phẩm thứ hai vốn là Phẩm thứ nhất, do đó Prajñākaragupta đã dùng giáo nghĩa Bồ Tát và tính chất của một đức Phật của Đại thừa để mở đầu toàn bộ Lượng luận thích); đồng thời Yamāri, một luận sư trường phái Kinh lượng bộ, đã viết sớ thích về bộ sớ giải của Prajñākaragupta (thế kỷ IX, một tác phẩm sớ thích thật sự vĩ đại). Luận sư Jñānaśrībhadra của Kinh lượng bộ, là thầy của Yamāri, đã chú giải Lượng quyết trạch luận (Pramāṇaviniścaya), trong khi đó luận sư Vinītadeva (thế kỷ VIII) đã bổ sung cho những trước tác của các luận sư thuộc trường phái Duy thức và 5 trước tác còn lại của Pháp Xứng. Hai nhà triết học khác của trường phái Duy thức là Jñānaśrīmitra và đệ tử của ông là Ratnakīrti (thế kỷ XI), đã viết một lượng lớn chuyên luận để củng cố những gì họ chủ trương là quan điểm thật sự của luận sư Pháp Xứng và Prajñākaragupta, để phản bác Dharmottara, đồng thời cũng phá trừ tư tưởng Nyāya của Bà-la- môn giáo. Luận sư Manorathanandin (thế kỷ XII?) đã đóng góp những sự giải thích khá đơn giản liên quan qua những kệ tụng về bốn Phẩm của Lượng luận thích, dựa trên thứ tự và mục đích của luận sư Jinamitra để xây dựng hệ thống của trường phái Duy thức. Mokṣākaragupta (khoảng năm 1100) giải thích về những tác phẩm của học trò luận sư Pháp Xứng (kệ tụng 1), có lẽ thuộc Kinh lượng bộ. Trong một bộ sách giới thiệu về Nhân minh là Chính lý dẫn ngôn (Tarkabhāṣā) của mình, Mokṣākaragupta trình bày quan điểm của nhiều trường phái nhưng không đưa ra bình luận. Bộ sách nhập môn này tinh tế hơn nhiều so với Chính lý nhất trích (Nyāyabindu) và khái quát nhiều luận điểm phản bác của nhiều trường phái ngoài Phật giáo. Vị luận sư này phê phán các ‘tướng trạng’ của thức trong quan điểm của trường phái Duy thức.