• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ - Tập 2
  3. Trang 32

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 31
  • 32
  • 33
  • More pages
  • 47
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 31
  • 32
  • 33
  • More pages
  • 47
  • Sau

Luận tạng trong và sau thế kỷ V

Chúng ta đã lưu ý ở trên rằng trung tâm chính của Thượng tọa bộ giai đoạn này là Tích Lan và Chùa Lớn (Mahāvihāra). Trường phái này tiếp tục thịnh hành ở Nam Ấn Độ cho đến cuối thế kỷ XIV, đồng thời duy trì một số cơ sở hoằng pháp ở Ma-kiệt-đà, ngoài ra phát triển lớn mạnh ở một số nước Đông Nam Á. Trường phái bảo thủ này đã thêm vào một số ít văn bản trong di sản giáo lý mà chúng ta đã trình bày. Nhưng giữa những trường phái thời kỳ đầu, trường phái này được bảo tồn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Hơn nữa, không có hình thức văn học nào của Phật giáo bảo tồn được nguyên vẹn tính văn học cổ điển bằng ngôn ngữ Ấn Độ nguyên thủy như trường phái này, vì vậy tất cả nghiên cứu nghiêm túc về Phật giáo đều phụ thuộc vào nguồn văn học tiếng Pali. Ngoài bộ Ba tạng giáo lý hoàn chỉnh này, chúng ta có một bộ luận giải2 và sớ giải của nó hoàn hảo và cổ điển vào khoảng thế kỷ VIII cùng nhiều tác phẩm bổ sung khác rất hữu ích cho việc nghiên cứu giáo lý Phật giáo và những chủ đề liên quan như lịch sử và ngôn ngữ học. Về sau những nhà triết học của trường phái này có ý định nâng cao thêm một bước bằng cách hệ thống hóa và làm rõ ý nghĩa truyền thống văn học đã được truyền thừa, họ ghi chép lại những tranh luận cổ điển một cách cẩn thận và tỉnh táo trước phát triển mới trong những trường phái khác, từ đó họ thỉnh thoảng tiếp nhận khái niệm có ích.

2. Bản chất những văn bản hiện còn của các bộ sớ giải này xem tr. 455 trở xuống ở trên.

Ở thế kỷ V, Buddhaghosa xuất hiện, ngoài cống hiến dịch hầu hết luận giải bằng tiếng Tích Lan cổ đại sang tiếng Pali để lưu hành ở Ấn Độ, vị luận sư này còn biên soạn một tác phẩm lớn mang tính quyết định cuối cùng ‘sách của Con đường’, Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga). Bản luận này bao hàm phần lớn Luận tạng cũng như những miêu tả về thiền định một cách tường tận. Theo luận sư Buddhaghosa, ‘tự tính’ của các pháp phải căn cứ vào ‘tự tướng’ (svalakṣaṇa) của chúng mới hiểu được đầy đủ, tính này là tướng của mỗi pháp được định nghĩa trong các sớ giải. Vị luận sư cũng gọi nó là ‘phân biệt tướng’ và ‘hòa hợp tướng’. Cách phổ biến dùng ‘pháp tướng’ thay thế ‘pháp tính’ hoặc ‘pháp thể’ (bhāva, theo truyền thống sớ giải cổ điển) dường như đó là một phản ứng đối với phê phán của Long Thọ. ‘Tướng chung’ (sāmānyalakṣaṇa) của các pháp gồm ba đặc tính: ‘vô thường’, ‘khổ’ và ‘vô ngã’ mà tất cả các pháp đều thật có (xem Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga)). Một người cùng thời, Buddhadatta cũng đến từ Ấn Độ, đã viết tác phẩm Nhập A-tỳ-đàm luận (Abhidharmāvatāra), chia các pháp làm năm mục: tâm pháp, tâm sở pháp, sắc pháp, Niết bàn và giả danh (prajñapti, giả thi thiết, khái niệm), mục cuối cho dù thế nào đều là pháp không thật.3 Luận sư Mahānāma sống vào khoảng thế kỷ VI, đã chú giải về Vô ngại đạo luận (Paṭisaṃbhidāmagga) đưa ra hệ thống danh mục hay ‘vị’ có thể biết được khác với nguyên tác, tức ‘hòa hợp’ (tính phụ thuộc của các pháp), ‘chuyển biến’ (vikāra, sự hiện khởi hay duyên khởi của các pháp đều là Sự thật thứ hai..., và sự biến đổi, tiêu hao của chúng), các tướng (‘riêng’ và ‘chung’), Niết bàn và giả danh (PsA tr. 58, 523, 596).

3. Để khảo sát những nhà triết học Thượng tọa bộ liên quan điểm này xem ‘The Concept of a Concept’.

Luận sư Ānanda ở thế kỷ VIII, đã viết bộ sớ giải về Luận tạng, bên cạnh đó còn nêu rõ nghĩa hơn nữa các ‘khái niệm’ (giả danh), đưa ra định nghĩa cho một trong những khái niệm đó, là ‘thời gian’ (kāla), cho rằng nó ‘không hiện khởi’ (tức không có tính thực tại tương tục) nhưng mang tính quy định hoặc sự tồn tại để được nhận ra như ‘chỗ chứa đựng’ hoặc ‘quỹ tích’ trong mối tương quan đối với sự vắng mặt của thời điểm tạm thời trước và sau (Pháp tụ luận chú [Atthasālinī Ṭ] tr. 47, Colombo xuất bản). Một đệ tử của luận sư Ānanda là Dhammapāla (II), tác giả lớn nhất về sớ giải (và chú sớ những tác phẩm của Ānanda), ở tầm rộng và quan trọng trong những tác phẩm của mình đều tương phản với Buddhaghosa. Dhammapāla (II) viết bộ luận cương yếu về Luận tạng, giải thích về hai chân lý, đó là Chân đế yếu lược (Saccasaṅkhepa), chân đế liên quan đến các pháp, và tục đế liên quan đến khái niệm là không thật (avastu). Trong những bản chú sớ, Dhammapāla II tiếp nhận học thuyết Nhận thức luận (Nhân minh) của luận sư Trần Na: có hai phương pháp nhận thức, cảm giác (hiện lượng) loại trừ suy luận (tỷ lượng) và nhận ra tự tướng (tướng riêng); tỷ lượng nhận ra cộng tướng (tướng chung) (DṬ Vol. I, tr. 191-2, Thanh tịnh đạo luận chú [Visuddhimagga Ṭ], Burmese edn., tr. 888). Truyền thống (Ā-hàm) được quy vào tỷ lượng. Dhammapāla (II) đưa Buddhaghosa ra tranh biện, rằng đức Phật thật sự đã dùng hiện lượng để cảm nhận quá khứ và tương lai, bởi vì tâm của Ngài không bị phiền nhiễu (vô ngại) (DṬ Vol. III, tr. 119, trích dẫn từ Pháp tụ luận chú 1.37 làm chứng cứ). Ba tướng chung như vô thường..., không bao gồm trong ngũ uẩn bởi vì chúng không có tự tính, nhưng chúng không nằm ngoài ngũ uẩn bởi vì chúng không thể được nhận ra nếu nằm ngoài các uẩn, do đó chúng là giả lập, ‘khái niệm’ (Thanh tịnh đạo luận chú [Visuddhimagga Ṭ], Burmese edn., tr. 825). Như vậy vị luận sư này duy trì quan điểm dựa vào tỷ lượng mà biết được ‘giả danh’, ‘khái niệm’ và sự phân biệt giữa hai phương pháp nhận thức, cũng như những gì được nhận biết bởi hai phương pháp nhận thức này như hai chân lý (nhị đế). Tác phẩm Vô ngại đạo luận chú giải (Gaṇṭhipada) về Vô ngại đạo luận sớ (PsA), ra đời ở giai đoạn này, tuân thủ luận lý của hai phương pháp nhận thức và chủ trương rằng đạt được Niết bàn nhờ vào nhận thức về hai tướng, tức tướng chung và tướng riêng.

Những bộ sách giáo khoa về Luận tạng ra đời ở thế kỷ XII, như Thắng nghĩa quyết định luận (Paramatthavinicchaya) của Anuruddha II (A-na-luật) là thuần túy nhất, làm cho cương lĩnh của Buddhatatta dưới năm tiêu đề càng hoàn thiện hơn và đặc biệt giải thích tường tận về những khái niệm (giả danh, giả thi thiết). Thảo luận về hai chân lý (nhị đế), vị luận sư này nói rằng chân lý tuyệt đối (chân đế) không mâu thuẫn với thật tính (có lẽ không mâu thuẫn với hiện lượng, nếu ở đây chúng ta đọc ở một bản khác chép là sacchika), trong khi đó tục đế không mâu thuẫn với cách nói thói quen đời thường (1083-4). Tác phẩm Đoạn trừ ngu si (Mohavicchedanī) của luận sư Kassapa cùng với sớ giải của nó là hoàn hảo nhất, khái quát toàn bộ Luận tạng, là bộ luận chứa những Mātṛkā được trích xuất từ bảy bộ luận của trường phái này. Toàn bộ văn học sớ giải được mở rộng, hình thành nên vô số sách giáo khoa thuộc Luận tạng cho trường phái này, những nhà sớ giải đáng chú ý nhất là Mahābodhi, Sumaṅgala và Vācissara.

Cuối thời trung đại, những vị đại sư theo Thượng tọa bộ ở Miến Điện đã chú tâm nghiên cứu Abhidharma (A-tỳ-đạt-ma), trong đó xuất sắc nhất là Ariyavaṃsa (thế kỷ XV), Saddammālaṅkara (thế kỷ XVI) và Tilokaguru (thế kỷ XVII). Đối tượng nghiên cứu chính của họ là bốn bộ luận: Pháp tập luận (Dhammsangaṇi), Giới ngôn luận (Dhātukathā), Song đối luận (Yamaka) và Phát thú luận (Paṭṭhāna), cùng với chú giải và sớ giải của bốn bộ luận này, mục đích phơi bày toàn bộ ẩn ý của hệ thống. Truyền thống này tiếp tục cho đến thế kỷ hiện nay.

Lịch sử của Nhất thiết hữu bộ rất ít được biết ở giai đoạn này, vì trường phái này cũng như tất cả trường phái khác hầu như bị hủy diệt bởi những đoàn quân Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Ấn Độ. Lần hệ thống lại Luận tạng cuối cùng của họ dường như được Skandhila, Saṃghabhadra và Vimalamitra tiến hành vào thế kỷ V và VI. Hai vị sau có bình chú về Câu-xá luận thích của Thế Thân II với mục đích tái lập truyền thống A-tỳ-đạt-ma của trường phái Tỳ-bà-sa (Vaibhāṣikas) thuộc hệ thống Nhất thiết hữu bộ. Về sau tác phẩm Luận thích của Thế Thân II được các nhà sớ giải Kinh lượng bộ bảo vệ, trong đó có luận sư kiệt xuất nhất là Yaśomitra (thế kỷ VIII).

Ngoại trừ những trường phái vừa đề cập, sử gia Tāranātha người Tây Tạng còn cho chúng ta biết rằng những trường phái có trước tiếp tục hưng thịnh ở đế quốc Pāla (tức cho đến thời gian càn quét của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ: Đại chúng bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ, Thuyết giả bộ, Độc tử bộ và Chính lượng bộ. Trên thực tế, không có bằng chứng lịch sử về những trường phái này vào giai đoạn đó, chỉ có tên một vài vị đại sư ưu tú nhưng về sau đều sáp nhập vào Đại thừa. Cũng từ sử gia này cho chúng ta biết4 rằng những vị tỷ-kheo đi theo các trường phái có trước, chúng ta thường gọi là ‘Thanh văn thừa’ (Srāvakas), vẫn chiếm đa số trong Phật giáo Ấn Độ thế kỷ XII, mặc dù sử gia này còn tuyên bố thêm rằng họ rất thán phục sự vĩ đại của vị thầy Abhayākaragupta (Hộ vô úy) thuộc Đại thừa và Mật tông.

4. Chương XXXVI trong bản biên tập của Schiefner.