Từ Phật giáo Nguyên thủy theo thời gian diễn tiến thành Phật giáo bộ phái. Ban đầu phân thành hai bộ phái gốc là Đại chúng bộ (Mahāsamghika) và Thượng tọa bộ (Sthavira), và một cuộc tranh luận đã diễn ra liên quan đến giới luật ở đại hội Thất bách kết tập. Tuy cả hai bên đều có cử đại biểu tham dự và đưa ra ý kiến thống nhất giải quyết trên nền tảng hòa bình, nhưng đó cũng chỉ là tạm thời mà thôi. Phật giáo của các Tỳ kheo miền Đông trực thuộc trung tâm Tỳ Xá Ly (Vaiśālī) đang trên tiến trình phát triển mạnh mẽ, vì thế kiến giải của họ ngày càng có khoảng cách lớn với kiến giải của các Tỳ kheo miền Tây, và kết cục hai miền Đông Tây phân lập thành hai bộ phái. Từ trên danh xưng Đại chúng và Thượng tọa mà nói, đây là sự phân hóa đầu tiên trong Tăng đoàn của Phật, tuy cũng không tránh được bất đồng kiến giải về pháp nghĩa, nhưng chủ yếu vẫn là vấn đề giới luật.
Đức Thế Tôn thiết lập quy chế Tăng già (saṅgha) trên nguyên tắc là tôn Thượng tọa, trọng Đại chúng. Đối với các bậc trưởng lão Thượng tọa hữu học, có đức hạnh và có tu chứng phải có sự tôn trọng và cung kính, nhưng lúc xử lý sự việc trong Tăng già, cử hành hội nghị - yết ma (karma) thì mọi người đều bình đẳng, căn cứ theo ý kiến của đại chúng mà quyết định. Trong lúc đó, Phật giáo miền Tây dần dần hình thành quyền uy của các vị Thượng tọa, cho nên có truyền thuyết Ngũ sư tương thừa: “Tư tưởng khá bảo thủ, đối với luật chế là tất cả những điều khinh trọng của giới luật đều phải tuân thủ”. Còn trong Tăng đoàn thuộc hệ miền Đông đại đa số là Tỳ kheo trẻ tuổi, số lượng người đông, tư tưởng lại phóng khoáng hơn, đối với giới luật họ thường xem trọng những giới căn bản. Do đó, nguyên nhân dẫn đến cuộc tranh luận ở đại hội Thất bách kết tập chủ yếu là Tỳ kheo cầm nắm vàng bạc, phía Thượng tọa bộ đã chỉ ra mười điều không hợp pháp. Trong Ngũ phần luật1 ghi:
1 Phật Đà Thập, Trúc Đạo Sinh dịch, Di sa tắc bộ Hòa hê Ngũ phần luật, quyển 30. Đại chính tạng, quyển 22, trang 192 a-b.
1. Được phép ăn muối với gừng trộn chung để cách đêm.
2. Được phép dùng hai ngón tay cầm nắm thức ăn để ăn.
3. Được phép đang ăn đứng lên rồi trở lại ngồi ăn tiếp.
4. Được phép vào trong xóm làng ăn.
5. Được phép ăn uống bơ, dầu, mật, đường phèn hòa với cao sữa.
6. Được phép uống rượu Đồ lâu già (rượu trái cây tự làm).
7. Được phép làm tọa cụ lớn, nhỏ để ngồi theo ý mình.
8. Được phép làm những việc quen theo nếp sống cũ.
9. Được phép yêu cầu chúng Tăng đồng ý theo yết ma của mình.
10. Được phép nhận cất vàng, bạc, tiền.
Chữ “được phép” hay “thanh tịnh” (kappa) ở trên nghĩa là thích nghi, hợp pháp, hợp với giới luật nên được phép.
Do chủ trương “khinh trọng đều giữ”, nên đối với những vấn đề nhỏ nhặt, như việc ăn uống v.v. được các Thượng tọa ở miền Tây vô cùng xem trọng, cần phải giữ gìn nó như giữ giới trọng. Tỳ kheo miền Đông thì xem trọng những giới căn bản, không câu nệ vào những quy định nhỏ nhặt. Do hai bên thống nhất lấy ý kiến đại chúng làm chủ chốt, tôn kính các bậc Thượng tọa, nên cuối cùng dẫn đến việc phân chia thành hai bộ phái.
Sự phân hóa của bộ phái, tuy nói rằng nguyên nhân chủ yếu lúc đầu chia ra hai bộ phái là do phương diện giới luật, nhưng trên phương diện tư tưởng đương nhiên cũng đã tồn tại những vấn đề bất đồng. Bất luận là sự phân chia ban đầu hay sau này tiếp tục phân hóa, chúng ta vẫn phải tôn trọng vấn đề bất đồng căn bản trên phương diện tư tưởng. Không thể lấy những cái bất đồng của bộ phái do đời sau truyền lại mà suy luận ra tình hình phân chia lúc ban sơ, vì tư tưởng của mỗi bộ phái đều có sự phát triển và diễn biến khác nhau.
Phật pháp từ hai bộ phái trên tiếp tục phân hóa, truyền thuyết cho là phân thành 18 bộ phái. Thực ra, chi nhánh phân chia không chỉ là chừng đó. Sự phân chia bộ phái một cách nhanh chóng và không ngừng ấy có liên quan mật thiết đến việc quy y Tam bảo và hộ pháp của vua A Dục (Aśoka).
Sau khi vương triều Śaiśunāga ở Ma Kiệt Đà (Magad-ha) sụp đổ, vua Nan Đà (Mahāpadma Nanda) sáng lập nên triều đại Nan Đà (Nanda), uy thế đất nước tương đối hùng mạnh. Năm 327 TCN, vua nước Macedonia tức Alexander, sau khi đem quân chiếm lấy Ba Tư (Pāra-sya), A Phú Hãn (Afghanistan), Baluchistan xong thì kéo quân lên vùng Tây Bắc Ấn, trực tiếp đánh vào Trung Ấn. Nhưng sau đó, khi vua Alexander trở về nước thì băng hà (năm 323 TCN), nhờ vậy vùng Trung Ấn mới thoát khỏi kiếp nạn. Khi vua Alexander tiến vào chiếm Ấn Độ thì mang theo văn hóa nghệ thuật của Hy Lạp (Hellas) truyền vào Ấn Độ, vì thế người dân Ấn mới có cuộc vận động phong trào nổi dậy kháng ngoại. Điển hình trong phong trào này là Chiên Đà La Cấp Đa (Chandragupta), là người bị vua nước Ma Kiệt Đà đày đến vùng Panjab thuộc Bắc Ấn. Sau khi Alexander về nước, Chiên Đà La Cấp Đa liền tập trung binh sĩ, vùng dậy khởi nghĩa và đuổi quân đội Hy Lạp ra khỏi vùng Bắc Ấn, sau đó tiến quân vào Ma Kiệt Đà, lật đổ vương triều Nan Đà, sáng lập ra vương triều Khổng Tước (Maurya). Thời kỳ cực thịnh của vương triều này, ngoài Nam Ấn Độ, lấy sông Ba Na (Pennair) làm ranh giới ra, chiếm hữu toàn bộ cõi Ấn; A Phú Hãn (Afghanistan), Baluchistan cũng thuộc địa phận của vương triều này, trở thành thời đại thống nhất của nước Ấn Độ cổ đại. Người truyền thừa tiếp theo là A Dục (Aśoka), ông lên ngôi vào khoảng năm 271 TCN, ngôi vị là do ông tranh giành với những người anh trai của mình. Để củng cố lại bộ máy chính quyền, lập nên một đất nước mới, đối với kẻ địch chính trị thì không thể tránh được chuyện tàn bạo đổ máu. Vì vậy người ta gọi ông là Chiên Đà La A Dục.
Năm thứ chín sau khi lên ngôi, ông lại đi chinh phạt nước Yết Lăng Già (Kalinga)1. Bởi tận mắt nhìn thấy sự thật binh lính và dân chúng chết phơi mình trên chiến trận một cách tàn khốc, vua A Dục liền từ bỏ chiến tranh xâm lược, mà thay bằng chính sách chung sống hòa bình với các nước lân cận. Trong nước, ông vận dụng pháp Phật làm nền tảng đạo đức thiện hạnh để cai trị dân chúng, từ việc ông lưu lại “Pháp sắc” trên đá thì có thể thấy được việc ông thi hành chính sách nhân từ để cai trị đất nước. Do đó, ông được tôn xưng là “Pháp A Dục”. Sự cải đổi hành vi của vua A Dục có liên quan mật thiết đến vấn đề lòng tin của ông đối với Phật pháp. Đối với những tôn giáo thông thường khác, ông cũng có sự tôn trọng, nhưng lòng tin của ông đối với Phật pháp thì rất sâu sắc, ông đã góp phần rất lớn vào công việc phát triển Phật pháp.
1 Tham khảo Châu Tường Quang, Ấn Độ thông sử, Đại thừa Tinh xá xuất bản, năm 1992 (Dân Quốc năm 81) trang 61-75.
Thứ nhất, vua A Dục tập hợp Xá lợi (śarīra) Phật để truyền đi khắp các khu vực và xây dựng tháp (stūpa) để cho người dân thường có cơ hội chiêm bái tháp Xá lợi Phật (xây tháp Xá lợi, ban đầu là tháp nhỏ, tiếp sau đó dần dần xây thành lớn), từ đó phong trào xây tháp càng ngày càng hưng thịnh.
Thứ hai, truyền thuyết của Bắc truyền: Dưới sự chỉ đạo của Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta), vua A Dục chiêm bái đảnh lễ tất cả thánh tích của đức Thế Tôn và các đức Phật trong quá khứ, đặc biệt là “Tứ động tâm”. Phía Nam truyền thì không chép, nhưng xác thật có việc đó. Những thánh tích nào mà vị vua này đặt chân đến chiêm bái đảnh lễ, ông đều cho dựng những trụ đá cao đến bốn, năm trượng, được chạm trổ rất tinh xảo, đồng thời khắc bài minh ghi rõ vào ngày đó tháng đó A Dục vương đến đây đảnh lễ chiêm bái thánh tích. Ở vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbinī), nơi đức Phật đản sinh hay tại vườn Nai (Rsipatana-magadāva) nơi Ngài chuyển bánh xe Pháp lần đầu tiên v.v. đến nay vẫn còn dấu tích những trụ đá của vua A Dục để lại.
Thứ ba, truyền thuyết của Phật giáo Nam phương ghi: Vua A Dục phái những vị đại đức danh tiếng, chia nhau đi những vùng xa để hoằng truyền pháp Phật. Ngoài Ấn Độ ra, còn đến các nước Yonaloka của người Hy Lạp dưới sự quản lý của Ấn Độ; nước Kim Địa (Suvannabhūmi) tức Miến Điện (Burma); đảo Lăng Già (Lakādīpa) tức Tích Lan v.v. Từ đó, Phật giáo dần được lan rộng và trở thành Phật giáo quốc tế.
Thứ tư, vua A Dục thọ trì giới Bát quan trai (thời gian một ngày một đêm hoặc kéo dài hơn), nên ông thường ở trong Tăng viện. Con trai nhà vua là hoàng tử Mahinda và con gái là công chúa Sanghamitta đều xuất gia, sau đó hai anh em cùng đến Tích Lan để truyền bá Phật pháp.
Vua A Dục quy y Phật khiến cho Phật giáo phát triển mạnh mẽ. Nhưng vì văn hóa dân tộc, ngôn ngữ, phong tục tập quán của từng địa khu đều có sự bất đồng, nên việc thích ứng giáo hóa của Phật pháp cũng có ít nhiều sự khác biệt, trở thành nhân tố chính yếu, sâu đậm cho việc phân chia bộ phái.
Thời đại vua A Dục, bộ phái vốn đã tồn tại. Theo truyền thuyết của Nam truyền ghi: Mục Kiền Liên Đế Tu (Moggaliputtatissa) nói: “Phật phân biệt thuyết”1. Do đó, có thể thấy được ông là người của Phân biệt thuyết bộ (Vibhājyavādin) được phân hóa từ Thượng tọa bộ. Đương thời, Đại Thiên (Mahādeva) là Thượng tọa được phân đến giáo hóa vùng Mahīsakamandala Nam Ấn Độ (nay là Maisur), do sự hoằng hóa của Đại Thiên mà về sau lại phân thành Chế đa sơn bộ (Caityaśaila), Đại Thiên là thuộc Đại chúng bộ. Mạt Xiển Đề (Majjhāntika, Madhyāntika) được phân đến giáo hóa nước Kế Tân (Kaśmīra), Kiền Đà La (Gandhāra), những vùng này thuộc Bắc Ấn; Mạt Xiển Đề là thuộc Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) được phân ra từ Thượng tọa bộ. Phật giáo Ấn Độ thời đại vua A Dục vốn từ hai bộ phái chính mà phân thêm ba hệ phái khác. Thiện kiến luật Tỳ bà sa ghi:
1 Tăng Già Bạt Đà La dịch, Thiện kiến luật Tỳ bà sa, quyển 2, Đại chính tạng, quyển 24, trang 684 b.
“Mục Kiền Liên Đế Tu làm hòa thượng, Ma Ha Đề Bà làm A xà lê truyền thập giới. Đại đức Mạt Xiển Đề làm A xà lê truyền thọ cụ túc giới. Lúc đó hoàng tử Mahinda vừa tròn hai mươi tuổi được thọ cụ túc giới”2.
2 Tăng Già Bạt Đà La, Thiện kiến luật Tỳ bà sa, quyển 2, Đại chính tạng, quyển 24, trang 682 a.
Thiện kiến luật là bộ luật của Phật giáo miền Nam, hoàng tử Mahinda con của vua A Dục xuất gia thọ giới được ghi lại trong bộ luật này. Từ sự thật được ghi lại này chúng ta có thể hiểu được: Thủ đô của vương triều Khổng Tước - Hoa Thị thành (Pāliputra) và Tỳ Xá Ly (Vaiśālī) - trung tâm của Đại chúng bộ chỉ cách nhau một con sông (sông Hằng). Đương thời, vùng trung tâm của vương triều là khu vực của Đại chúng bộ hoằng hóa, do vậy, Mạt Xiển Đề được nhà vua tôn kính, điều ấy cũng dễ hiểu. Trước lúc vua A Dục lên ngôi, ông ra trấn giữ ở nước Ưu Thiền Ni (Ujjayani), đây là vùng trọng yếu của Thượng tọa bộ (Phân biệt thuyết bộ) phát triển đến hướng Tây Nam. Ở đây vua A Dục cưới cô gái tên là Đề Tỳ (Devi) ở thành Vedīsa, sinh hạ được một người con trai tên là Mahinda và một cô con gái tên là Sanghamitta. Nàng Đề Tỳ một mực muốn ở tại Ưu Thiền Ni. Vì vợ con là người Ưu Thiền Ni, nên vua A Dục cũng trấn thủ ở đây, do vậy vua A Dục mới có được một lực lượng lớn ủng hộ mình, tạo thành thế lực hùng hậu, vững mạnh giúp ông chiếm đoạt được ngôi vua.
Đồng thời ông có mối quan hệ khá chặt chẽ với Phật giáo ở nơi đây - Phân biệt thuyết bộ. Có lẽ vì thế mà hoàng tử Mahinda xin xuất gia và tôn ngài Mục Liên Đế Tu làm hòa thượng, âu đó cũng là lẽ đương nhiên. Hoàng tử Mahinda lúc đầu thọ mười giới Sa di, theo luật chế định khi xuất gia học đạo nên theo hai thầy cầu thọ giới, nên hoàng tử theo hòa thượng Mục Liên Đế Tu và A xà lê Đại Thiên (Ma ha Đề Bà) học đạo. Đến lúc tròn hai mươi tuổi thọ cụ túc giới (Tỳ kheo), có đủ ba thầy - hòa thượng cùng nhị vị A xà lê. Trong cảm nhận của vua A Dục, sự thân thiết của mình đối với Thuyết nhất thiết hữu bộ không thể bằng với Đại chúng và Phân biệt thuyết bộ, nhưng trong lòng ông đều tôn kính như nhau, nên ông đã cung thỉnh Mạt Xiển Đề làm giáo thọ A xà lê cho con trai của mình.
Từ ba vị thầy truyền giới cho hoàng tử Mahinda chúng ta có thể biết thêm về sự tồn tại của các bộ phái. Vua A Dục một lòng tôn kính, biểu hiện tâm mong mỏi có sự bình đẳng hòa hợp ở ba bộ phái, đồng thời cùng nhau nỗ lực xây dựng ngôi nhà Phật pháp. Cho nên, thời đại vua A Dục, các đại đức được phân đi các nơi để giáo hóa, trong đó người của Phân biệt thuyết bộ tương đối nhiều, nhưng Đại Thiên và Mạt Xiển Đề chắc chắn không phải là chung hệ phái của Mục Liên Đế Tu.
Tỳ kheo Mahinda được cử đến đảo Lăng Già và lập ra Xích đồng diệp bộ (Tāmraśātīya), nay gọi là Phật giáo Nam truyền. Theo truyền thuyết “Ngũ sư tương thừa” của bộ phái này, xem Mục Liên Đế Tu là chính thống, những bộ phái khác là dị thuyết. Đây chỉ là ý thức tôn sùng tông phái mà thôi, tinh thần “vô tranh” của đức Thế Tôn hiển nhiên đã bị lãng quên rồi! Phật giáo Nam truyền có đề cập đến thời đại vua A Dục có đại hội kết tập lần thứ ba, nhưng các bộ phái khác thì hoàn toàn không nói đến. Truyền thuyết đương thời tất cả đều do Đế Tu đứng ra luận quyết chính nghĩa, viết ra tác phẩm Luận sự; thực ra Luận sự với mục đích bài xích các bộ phái, mà đương thời đại đa số các bộ phái chưa được thành lập.
Do những ghi chép lưu truyền không giống nhau, nên tên gọi của mười tám bộ phái cũng bất đồng. Song, quá trình phân hóa của các bộ phái quả thật có quá nhiều thuyết khác nhau, thiếu sự đồng nhất, nếu tham khảo thêm thì chủ yếu là từ Đại chúng bộ, Thượng tọa và Chính lượng bộ (Sammatīya) truyền lại. Ba thuyết này đều rút từ Dị bộ tinh thích của Thanh Biện (Bhavya); tham cứu từ Thuyết nhất thiết hữu bộ thì chủ yếu dựa vào Dị bộ tông luân luận; còn Xích đồng diệp bộ căn cứ vào Đảo sử v.v. Hai bộ phái Thuyết nhất thiết hữu và Thượng tọa bộ có sự ghi chép tương đối giống nhau. Nam hải ký quy nội pháp truyện của Nghĩa Tịnh chép: “Sự ra đời của các bộ phái không giống nhau, các nước Tây Vực cùng nhau truyền nối, cơ bản chỉ có bốn”1. Khi khảo cứu về quá trình tái phân phái của bốn đại bộ phái về sau, tôi cảm thấy: tình hình phân phái nhiều lần của Đại chúng bộ, căn cứ theo những gì ba bộ phái (Thượng tọa, Thuyết nhất thiết hữu, Chính lượng) thuộc Thượng tọa bộ đã đề cập, là khá gần gũi và hợp lý. Cũng vậy, tình hình phân phái của Thượng tọa bộ, có lẽ phải căn cứ vào sự truyền thừa của Đại chúng bộ, như thế thì càng hợp lý hơn. Điều này là bởi sự truyền thừa và phân hóa của các bộ phái khác hệ thống, người ở ngoài cuộc có cách nhìn và đánh giá khách quan hơn. Đối với sự phân hóa trong cùng một hệ thống, ai cũng cho rằng mình là chính thống, xem những phái trong cùng hệ phân ra từ bộ phái mình là anh em, đây là ý thức chủ quan “tự tôn tông mình”, khiến cho truyền thuyết trở thành hỗn loạn.
1 Nghĩa Tịnh, Nam hải ký quy nội pháp truyện, quyển 1, Đại chính tạng, quyển 54, trang 205a.
Theo nguyên tắc này mà điều chỉnh thêm một cách sơ lược, sự phân hóa của các bộ phái từng diễn biến như sau: Ban sơ, do bất đồng về quan điểm giới luật mà phân thành hai: Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ. Trong Thượng tọa bộ lại phân thêm hai bộ: (Thượng tọa) Phân biệt thuyết bộ và Thượng tọa (Thuyết nhất thiết hữu được phân từ Phân biệt thuyết bộ); cộng với Đại chúng bộ thành ra ba bộ phái. Thượng tọa (Thuyết nhất thiết hữu) lại phân thêm Nhất thiết hữu bộ và Độc tử bộ (Vātsīputrīya). Bộ Đại tỳ bà sa được biên tập vào thế kỷ thứ II có chép: Độc tử bộ “hoặc sáu hoặc bảy, không đồng với ở đây (Thuyết nhất thiết hữu bộ), còn lại đại đa số tương tự”1. Có thể suy luận được, hai hệ này xuất phát từ cùng một bộ phái. Như thế tổng cộng thành bốn bộ phái lớn. Chính lượng bộ được xuất sinh từ Độc tử bộ, bộ phái này hoằng truyền cực thịnh, chiếm lấy địa vị chủ chốt trong hệ thống Độc tử. “Cơ bản chỉ có bốn” bộ mà Nghĩa Tịnh nói chính là Đại chúng bộ, Thượng tọa bộ, Thuyết nhất thiết hữu bộ và Độc tử bộ. Sự phân hóa của Phật pháp từ hai bộ phái, ba bộ phái rồi đến bốn đại bộ phái, như biểu đồ sau:
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 2, Đại chính tạng, quyển 27, trang 8b.
Thời đại vua A Dục, Mục Liên Đế Tu tự xưng mình là “Phân biệt thuyết giả” tức là Phân biệt thuyết bộ, Mạt Xiển Đề là Nhất thiết hữu bộ, Đại Thiên là Đại chúng bộ. Đại Thiên du hóa miền Nam, những bộ phái như Án Đạt La bộ (Andhakā), Đông sơn bộ (Pubbaseliyā), Tây sơn bộ (Aparaseliyā), Vương sơn bộ (Rajagiriyā), Nghĩa thành bộ (Siddhatthika) bị Luận sự bài xích sau này, đều được phân hóa từ Đại chúng bộ. Do đó, có thể thấy được rõ ràng Phật giáo thời vua A Dục đã tồn tại ba bộ phái lớn. Đại chúng bộ đã có sự phân hóa nhiều lần từ rất sớm. Cho nên, có thể suy định được thời kỳ đầu tiên bộ phái phân hóa (hai bộ phái) là vào khoảng năm 300 TCN.
Giai đoạn thứ hai của bộ phái phân hóa là bắt đầu khoảng năm 270 TCN, giai đoạn này Phân biệt thuyết bộ, Thuyết nhất thiết hữu bộ đều căn cứ theo sự bất đồng về pháp nghĩa mà đặt tên cho bộ phái mình. Như thế, sự phân hóa ban đầu của Đại chúng bộ là Nhất thuyết bộ (Ekavyāvahārika), Thuyết xuất thế bộ (Lokottavādin), Đa văn bộ (Bahuśrutīya), Thuyết giả bộ (Prajñptivādin), tất cả cùng căn cứ theo sự sai biệt pháp nghĩa mà lấy tên. Thực ra chính ngay Kê dân bộ (Kaukkutika) cũng căn cứ vào thuyết “tất cả hành là than nóng” mà lấy tên.
Giai đoạn phân hóa thứ ba, ước khoảng cuối thế kỷ III đến đầu thế kỷ II TCN, các bộ phái phân hóa ở giai đoạn này đều căn cứ vào tên người, tên vùng, tên núi, tên chùa mà đặt tên. Như các bộ phái được phân hóa từ Đại chúng bộ: Chế đa sơn bộ, Đông sơn bộ, Tây sơn bộ v.v. đều lấy tên núi để đặt tên. Thuyết nhất thiết hữu bộ phân ra Độc tử bộ, Độc tử bộ lại phân ra bốn bộ phái khác là Chính lượng bộ, Pháp thượng bộ (Dharmottarīya), Hiền trụ bộ (Bhadrayānīya), Mật lâm sơn bộ (Sandāgārika). Phân biệt thuyết bộ lại phân thêm bốn bộ khác: Hóa địa bộ (Mahīśāsaka), Ẩm quang bộ (Kāśyapīya), Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka), Xích đồng diệp bộ (Tāmraśātīya), những bộ phái này đều lấy tên người, tên vùng để đặt tên. Xích đồng diệp bộ là đảo Tích Lan, được gọi là Phật giáo Nam truyền.
Giai đoạn phân hóa thứ tư, ước khoảng thế kỷ I TCN: từ Nhất thiết hữu bộ phân ra thêm Thuyết chuyển bộ (Samkrāntika), còn gọi là Kinh bộ (Sautrāntika), nhưng Thuyết chuyển bộ này khác với Kinh bộ của thế kỷ III. Đại chúng bộ lại phân thêm Thuyết đại không bộ (Mahāsuññatāvādin). Hai bộ phái nêu trên đều dựa vào pháp nghĩa để lấy tên. Đến đây Phật giáo bộ phái chuẩn bị chuyển qua thời kỳ Phật giáo Đại thừa. Thử căn cứ theo bốn giai đoạn phân phái của Phật giáo bộ phái, trình bày ngọn nguồn trước sau của sự phân hóa bộ phái theo biểu đồ sau1:
1 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 6, trang 351-353.
Giai đoạn đại hội “Thất bách kết tập”, truyền tụng những lời Phật thuyết, đệ tử thuyết và chư thiên thuyết, nếu được công nhận là chính xác thì đều đã được kết tập. Đến thời kỳ bộ phái phân hóa, lại kết tập thêm những bộ loại mới, tức là giáo pháp vốn được phân loại thành chín phần giáo, sau đó lại đưa thêm vào ba phần: Nhân duyên, Thí dụ và Luận nghị, thành ra mười hai phần giáo (dvādaśānga-vacana), Hán cựu dịch thành mười hai bộ kinh. Nhân duyên và Thí dụ là truyền thuật những sự tích; Luận nghị là thảo luận về pháp nghĩa. Sự tích trong truyền thuyết là có thể thông tục hóa, lúc thuyết pháp có thể trích dẫn dụ làm ví dụ chứng minh. Vì vậy, về phương diện ảnh hưởng của sự tích đối với Phật giáo trong vị lai, chắc chắn không thấp hơn phương diện luận cứu của pháp nghĩa, mà có lẽ sẽ lớn hơn. Nói đến sự tích thì phải lấy sự tích của đức Thế Tôn làm nòng cốt, vì thế nó mang lại sự ảnh hưởng và có tác dụng tương đối lớn cho việc khảo cứu pháp nghĩa đối với Phật giáo sau này. Tính chất, Nhân duyên và Thí dụ gần giống nhau, trên thực tế những phần giáo ấy đã tồn tại từ rất sớm, nhưng đến thời kỳ này được tổng hợp một cách tỉ mỉ để kết tập. Phần Bổn sinh (jātaka) trong chín phần giáo cũng chính là sự tích, cho nên phải hợp lại một.
Thứ nhất Bổn sinh: Tức là lấy những sự thật trước mắt làm nhân duyên để nói đến một sự kiện nào đó đã xảy ra từ trong kiếp quá khứ, sau đó kết luận: Lúc ấy, người đó chính là thân Ta (tức tiền thân của đức Thế Tôn), hoặc là người đệ tử nào đó. Thể thức như vậy gọi là Bổn sinh. Bổn sinh vốn đã có trong A hàm kinh, nhưng ở thời kỳ này được lưu truyền rất nhiều. Phật giáo miền Bắc ít đề cập đến “Ngũ bách bổn sinh” (năm trăm sự tích tiền thân); trong Tiểu bộ của Nam truyền chép, tổng cộng gồm có 547 kinh thuộc Bổn sinh, đều là nói về kiếp quá khứ của đức Thế Tôn, đại đa số là nói về tu tập Bồ tát hạnh của Ngài. Những mẩu chuyện trong Bổn sinh kể về thân phận trong kiếp quá khứ của đức Thế Tôn, có kiếp làm vua, có kiếp làm quan, hoặc làm dân thường, bậc đạo sư của tôn giáo (có lúc là ngoại đạo), cũng có kiếp làm thiên thần hoặc bàng sinh - loài thú, loài chim, loài cá v.v. Những mẩu chuyện thuộc loại chuyện Bổn sinh có tác dụng mang tính quyết định đối với tư tưởng Bồ tát của Đại thừa về sau, nêu cao hạnh Bồ tát không chỉ dừng lại ở chỗ thọ thân người, mà còn là thân trời, thân những loài súc sinh bậc cao cho đến quỷ vương v.v.
Thứ hai Thí dụ: Ý nghĩa của Thí dụ là sự tích sáng rạng, cho nên Hán cựu dịch thành Xuất diệu hoặc Nhật diệu. Trong Tiểu bộ của Nam truyền chia Thí dụ thành bốn bộ phận: “Phật thí dụ”, tức khen ngợi quốc độ của chư Phật trang nghiêm, nói về Thập độ Ba la mật chính là nói về đại hạnh rộng lớn của Bồ tát. “Bích chi Phật thí dụ”, “Trưởng lão thí dụ” gồm 547 vị, “Trưởng lão ni thí dụ” gồm 40 vị. Đây là hàng đệ tử Thanh văn, tự nói trong đời sống trong kiếp quá khứ đã gặp Phật, bố thí, tu hành như thế nào, trong nhiều kiếp hưởng phước báo nhân thiên, trong đời hiện tại mới thành tựu được quả cứu cánh giải thoát. Thí dụ của Thuyết nhất thiết hữu bộ được biên tập ở trong bộ Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da dược sự. Phần đầu nói về nhân hạnh rộng lớn của đức Như Lai trong những kiếp quá khứ lâu xa, phía trước dùng văn trường hàng giải thích, sau văn trường hàng là kệ tụng; bộ phận kệ tụng giống với “Phật thí dụ” của Phật giáo Nam truyền. Ở giữa có một số sự tình khác nhau, phần kế là nói đến đức Phật cùng 500 đệ tử đến bên bờ hồ Vô Nhiệt (Anavatapta), Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahākāśyapa) và các đệ tử tự nói về bổn hạnh quá khứ của mình, tổng cộng gồm 35 vị. Đây có thể nói là bản nguyên thủy của “Trưởng lão Thí dụ” thuộc Tiểu bộ kinh của Nam truyền.
Thứ ba Nhân duyên: Nhân duyên vốn nói chung về những việc đức Như Lai thuyết pháp, chế giới, ở đâu, nói cho ai, nói việc gì. Về sau, Nhân duyên được lưu truyền, chủ yếu là nói đến những sự tích của đức Như Lai, hoặc là nhân duyên của việc kiến lập Tăng đoàn. Như Thiện kiến luật của Xích đồng diệp bộ, Ngũ phần luật của Hóa địa bộ, Tứ phần luật của Pháp tạng bộ, Ma ha tăng kỳ luật của Đại chúng bộ, Thập tụng luật của Thuyết nhất thiết hữu bộ, Phật A tỳ đàm kinh của Chính lượng bộ. Để thành lập tổ chức Tăng già, chế định quy chế thọ giới, cũng dựa vào việc đức Thế Tôn thành Phật mà nói, hoặc từ việc đức Thế Tôn đản sinh mà nói, hoặc từ việc đời trước thọ ký thành Phật mà nói, hoặc nói những việc sau khi đức Thế Tôn thành Phật độ năm vị Tỳ kheo, mãi đến việc Ngài vào thành Vương Xá thuyết pháp, việc Xá Lợi Phất (Śāriputra), Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana) xuất gia, lại nói đến việc chế ra quy chế thọ cụ túc giới. Trong bộ Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da phá tăng sự, nói từ lúc đức Phật đản sinh thẳng suốt đến lúc đức Thế Tôn trở về cố hương - Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), độ những vị như Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) của dòng họ Thích xuất gia, cho đến việc Đề Bà Đạt Đa phá tăng. Phần này là nói đến nhân duyên của việc phá tăng. Trước phần Bổn sinh của Xích đồng diệp bộ, đầu tiên là nói “Nhân duyên xa”, “Nhân duyên xa vừa vừa” và “Nhân duyên gần” của đức Thế Tôn, cũng là nói về việc xảy ra trong kiếp quá khứ, nói đến nhân duyên của việc thành lập tinh xá Kỳ Viên (Jetavana), tại Kỳ Viên, Ngài thuyết về Bổn sinh, phần này là nói đến nhân duyên của Bổn sinh. Truyện ký của đức Thế Tôn được truyền trong các bộ phái có sự sai biệt tương đối lớn, chủ yếu là dựa vào Tỳ ni tạng (Vinaya), sau đó mới tách thành một bộ riêng.
Bổn hạnh tập kinh của Đàm Vô Đức bộ (Pháp tạng bộ) chép:
“Nên gọi kinh này như thế nào? Đáp: Các đại sư phái Ma ha tăng kỳ gọi kinh này là Đại sự, phái Tát bà đa (Thuyết nhất thiết hữu) gọi kinh này là Đại trang nghiêm, phái Ca Diếp Duy (Ẩm quang) gọi kinh này là Phật trùng nhân duyên, phái Đàm Vô Đức gọi kinh này là Thích Ca Mâu Ni Phật bổn hạnh, phái Di sa tắc (Hóa địa) gọi kinh này là Tỳ ni tạng căn bản”1.
1 Xà Ma Quật Đa dịch, Bổn hạnh tập kinh, quyển 60, Đại chính tạng, quyển 3, trang 932. a.
Danh mục của truyện ghi về đức Phật, mỗi bộ phái ghi mỗi khác. Hóa địa bộ ghi là Tỳ ni tạng căn bản chính là ghi lại nhân duyên xây dựng Tăng đoàn. Đại chúng bộ thì gọi là Đại sự, hiện nay vẫn còn nguyên bản Đại sự bằng tiếng Phạn, là bản của Thuyết xuất thế bộ vốn từ Đại chúng bộ mà phân ra, phần đầu của bản này cũng nói đến Tỳ ni. Hán dịch Phương quảng đại trang nghiêm kinh là truyện đức Phật của Thuyết nhất thiết hữu bộ, nhưng ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của Đại chúng bộ. Tu hành bản khởi kinh, Quá khứ hiện tại nhân quả kinh v.v. đều là Phật truyện được dịch sang tiếng Hán rất nhiều. Ba phần giáo nêu trên (Bổn sinh, Thí dụ, Nhân duyên) đều là sự tích về đức Thế Tôn, hoặc là sự tích của đời sống trong kiếp quá khứ, hoặc liên quan đến công đức của Phật và hạnh Bồ tát. Như trong bộ Đại sự có đề cập đến thế giới khác hiện tại có Phật, mười địa của Bồ tát. Trong các bộ phái, nói đến bốn Ba la mật đa, hoặc sáu Ba la mật đa, hoặc mười Ba la mật đa, đều quy nạp từ những đại hạnh trong những đời sống quá khứ của đức Thế Tôn1. Sau khi đức Thế Tôn vào Niết bàn, hàng đệ tử cảm thấy không còn cơ hội nào để nhìn thấy Ngài được nữa, dẫn đến “sự thương kính vĩnh hằng của hàng đệ tử đối với Thế Tôn”. Lòng tin kính và niềm thương nhớ của hàng đệ tử đối với Phật, trên sự tướng mà nói thì phát triển được sự sùng kính đối với “di thể” và “di tích” của Phật. Như việc xây tháp phụng thờ Xá lợi của Ngài, trang nghiêm cúng dường… khiến cho Phật giáo ngày càng phát triển rực rỡ. Trên phương diện ý thức, từ lòng tin chân thành lưu truyền ra hạnh nguyện rộng lớn của đức Thế Tôn trong kiếp quá khứ - Thí dụ và Bổn sinh, Nhân duyên ra đời thành Phật thuyết pháp giáo hóa của Ngài. Sự hy hữu của công đức Phật, sự từ bi của hạnh Bồ tát là truyền thuyết chung của các bộ phái Phật giáo.
1 Tham kiến Ấn Thuận, Quá trình tập thành của kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, chương 8, trang 558, 568, 592; Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 3, trang 109-174.
Đối với đức Phật hiện thực giữa nhân gian - đức Thế Tôn, nhiều ít vẫn tồn tại phần tưởng tượng. Phái xem trọng đức Phật nhân gian, như trong Tát bà đa Tỳ ni sa di chép: “Đã là Bổn sinh, Nhân duyên thì không thể y cứ. Những gì được nêu ở trong ấy không phải là Tu đa la, chẳng phải là Tỳ ni, không thể dùng để quyết định pháp nghĩa”1. Nhưng những bộ phái xem trọng về tín ngưỡng và lý tưởng thì căn cứ vào đó để luận cứu về công đức của Phật và đại hạnh của Bồ tát. Đây chính là nhân tố trọng yếu dẫn đến sự phân hóa bộ phái của Phật giáo. Đồng thời, tôn trọng tín ngưỡng và tôn trọng lý tưởng chính là vấn đề then chốt cho quá trình phát triển và hình thành Phật pháp Đại thừa về sau.
1 Thất dịch bản được chép đời Tần, Tát bà đa Tỳ ni sa di, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 23, trang 509b.
Nói tiếp về Luận nghị, là luận bàn những vấn đề có liên quan đến pháp nghĩa, bằng cách nêu ra những câu hỏi mang tính đối đáp và thảo luận. Nghĩa gốc của luận nghị là sự vấn đáp giữa đức Phật và các đệ tử cho đến giữa các đệ tử với nhau. Về sau bị biến nghĩa, như trong Du già sư địa luận định nghĩa:
“Thế nào là luận nghị? Hết thảy Ma đát lý ca, A tỳ đạt ma, nghiên cứu sâu xa về Tố đát lãm tạng, tuyên dương hết thảy tông yếu của khế kinh, gọi là luận nghị”1.
1 Di Lặc, Du già sư địa luận, quyển 25. Đại chính tạng, quyển 30, trang 419a.
Ma đắc lặc già (Mātrkā hoặc Ma đát lý ca) và A tỳ đạt ma (Abhidharma), hai bộ luận thư này là đệ tử Phật tham cứu và giải thuyết khế kinh (Tu đa la, Tố đát lãm) mà viết ra, đều gọi là Luận nghị. Luận Mātrkā có nghĩa là “bổn mẫu” (mẹ gốc), tức là nói bổn mẫu của pháp. Phân Tu đa la - khế kinh ra từng mục một rồi tuần tự giải thích, phán quyết tông yếu của khế kinh, nên gọi là Ma đắc lặc già (hoặc Ma đát lý ca). Như Mātrkā của Du già sư địa luận, phần Nhiếp sự, (quyển 85-98) là bổn mẫu của phần Tu đa la trong Tạp A hàm kinh. Lại như phần Nhiếp quyết trạch trong Du già luận (quyển 79-80), nêu ra và giải thích mười sáu việc của Bồ tát, chính là bổn mẫu của Đại bảo tích kinh thuộc hệ Đại thừa. Đây là luận giải thích kinh, nhưng phán quyết tông yếu khác với y văn thích nghĩa. A tỳ đạt ma được bộ phái Phật giáo khai triển ra, cùng với kinh và luật, hợp lại gọi là tam tạng. Vì vậy, A tỳ đạt ma được giới Phật giáo xem trọng là điều rất dễ hiểu. Luận cứu của A tỳ đạt ma cũng chính là kết tập khế kinh, nhưng không phải giải thích từng văn kinh, mà là chỉnh lý, tham cứu, chọn lựa, khiến cho Phật pháp trở nên sáng tỏ và có hệ thống, có logic. Nghĩa kinh sâu rộng, cho nên Tăng đoàn nhóm họp để khảo cứu, trở thành phong trào học thuật nghiên cứu Phật pháp, “Thảo luận về A tỳ đạt ma và thảo luận về Tỳ đà la”1.
1 Tăng chi bộ, tập 5, Nam truyền, quyển 19, trang 147.
Sơ khởi của A tỳ đạt ma chủ yếu là nói về phương pháp tu trì, như “năm căn”, “năm lực”… đây là phương diện thù thắng của Phật pháp, cho nên gọi là A tỳ đạt ma, mang ý nghĩa là “Tăng thượng pháp”, “Hiện quán pháp” (đối pháp), “Giác liễu pháp”, v.v. Tỳ đà la (Vedalla) là vấn đáp về pháp nghĩa, như uẩn với thủ uẩn, tuệ với thức, năm căn với ý căn, chết với định diệt tận, v.v. Xem trọng về việc vấn đáp phân biệt, sau khi người nghe hiểu rồi cảm thấy rất sung sướng và khen ngợi; từng vấn đề một được nêu ra để thảo luận như thế cũng rất hứng thú và hoan hỷ. Tỳ đà la của Nam truyền tương đương với Phương quảng của các bộ phái khác; bàn luận một cách rộng rãi về những pháp nghĩa sâu xa, có tác dụng hiển bày rộng rãi những nghĩa lý sâu nhiệm trong pháp nghĩa, và tác dụng phá bỏ triệt để vô tri. Về sau Phương quảng trở thành cách gọi chung của pháp Đại thừa. A tỳ đàm luận với Tỳ đà la luận về sau được hợp nhất lại, trở thành luận điển A tỳ đạt ma luận, là bộ luận điển rất nổi tiếng của Thượng tọa bộ.
A tỳ đạt ma luận có từ rất sớm, có trước khi Phật giáo Đại thừa hưng khởi, hiện tồn có bảy bộ luận của Nam truyền: Pháp tập luận, Phân biệt luận, Giới luận, Nhân thi thiết luận, Song luận, Phát thú luận, Luận sự. Sáu bộ luận đầu, truyền thuyết cho là do Phật nói; bộ luận thứ bảy Luận sự, theo truyền thuyết do Mục Liên Đế Tu soạn, chủ yếu là đả phá các tông phái khác, có thể nói đó là một bộ phê phán các bộ phái khác. Nhưng nội dung của Luận sự, đại đa phần là do đời sau thêm vào. Nhất thiết hữu bộ cũng có bảy bộ luận thư: Pháp uẩn túc luận, Tập dị môn túc luận, Thi thiết túc luận, Phẩm loại túc luận, Giới thân túc luận, Thức thân túc luận, Phát trí luận (cựu dịch là Bát kiền độ luận). Ngoài Thi thiết túc luận ra, tất cả đều được Đường Huyền Trang dịch. Phát trí luận là do Ca Chiên Diên Ni Tử (Kātyāyanīputra) tạo, là bộ luận căn bản của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Ca Chiên Diên Ni Tử là người phía Đông sông Hằng, luận được viết ở Chí Na Bộc Để (Cīnabhukti), thời gian viết luận là khoảng năm 150 TCN. Nội dung Phát trí luận bao gồm tám phần: tạp uẩn, kết uẩn, trí uẩn, nghiệp uẩn, căn uẩn, đại chủng uẩn, định uẩn và kiến uẩn. Cũng trong khoảng thời gian đó, Thế Hữu (Vasumitra) viết Thức thân túc luận; Phú Lâu Na (Pūrna) viết Giới thân túc luận; Đề Bà Thiết Ma (Devaśarman) viết Thức thân túc tuận. Những bộ luận này đều có sự ảnh hưởng từ Phát trí luận, thời gian viết những bộ luận này chỉ muộn hơn Phát trí luận không đáng kể. Phát trí luận là bộ luận chủ chốt của Thuyết nhất thiết hữu bộ, sáu bộ luận còn lại là thứ yếu, cho nên gọi là “Nhất thân lục túc” (một thân sáu chân). Ngoài ra, Đại trí độ luận chép: “Do Xá Lợi Phất giải thích lời Phật nói nên gọi là A tỳ đàm, về sau các vị Độc tử đạo nhân v.v. đọc tụng, cho đến nay vẫn còn gọi là Xá Lợi Phất A tỳ đàm”1. Toàn bộ nội dung của Xá Lợi Phất A tỳ đàm được chia thành bốn phần: Vấn phần, Phi vấn phần, Nhiếp tương ưng phần, Tự phần, tương đồng với Luận tạng được nói trong Tứ phần luật của Pháp tạng bộ2. Tỳ ni mẫu của Tuyết sơn bộ cũng chép: “Gồm có năm phần: Vấn phân biệt, Vô vấn phân biệt, Tương nhiếp, Tương ưng, Xứ sở sinh, gọi là Tạng A tỳ đàm”3. Từ đó có thể thấy được, bộ luận này là của Độc tử bộ hệ, và được Phân biệt thuyết bộ hệ của Ấn Độ đại lục - Pháp tạng bộ v.v. tụng tập. Tụng bản của các bộ phái nhiều ít có sự sai khác, bản Hán dịch là của Phân biệt thuyết bộ hệ.
1 Long Thọ, Đại trí độ luận, quyển 1, Đại chính tạng, quyển 25, trang 70a.
2 Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch, Tứ phần luật, quyển 5. Đại chính tạng, quyển 22, trang 968b.
3 Thất dịch, Tỳ ni mẫu kinh, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 24, trang 818a.
Từ nội dung bộ Xá Lợi Phất A tỳ đàm luận, tham khảo thêm cách thức giải thích của Đại tỳ bà sa luận4, thì có thể nhìn thấy được chủ đề và phương pháp luận cứu của A tỳ đạt ma luận, cũng từ đó mà hiểu được mối quan hệ luận thư của Nam truyền và Thuyết nhất thiết hữu bộ. Bốn phần hoặc năm phần là chủ đề luận cứu của A tỳ đàm trong thời kỳ đầu: Tự tướng (Svalaksana), Cộng tướng (Sāmānyalaksana), Nhiếp (Samgreha), Tương ưng (Samprayukta), Nhân duyên (Nidāna) - luận đề căn bản của A tỳ đạt ma.
4 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 23. Đại chính tạng, quyển 27, trang 116a.
Tự tướng: Tất cả pháp đức Phật thuyết như mắt, tai…; định, tuệ…, xác định không giống với tính chất của những pháp khác; cũng là xác định bản chất của nó, còn gọi là tự tính (Svabhāva).
Cộng tướng: Như thiện và bất thiện, nếu là tính thiện thì thông với tất cả pháp thiện, còn bất thiện thì thông với tất cả pháp bất thiện; thông với một phần hoặc thông với hết thảy pháp đều gọi là cộng tướng, là tính chất cộng thông của pháp.
Nhiếp: Đức Phật tùy theo căn tính của chúng sinh mà nói pháp, có những pháp tuy cách gọi khác nhưng nội dung lại tương đồng, nên thống nhiếp vào một pháp, tức là giản hóa bớt những rườm rà để dễ hiểu.
Tương ưng: Sự hoạt động của nội tâm bao gồm tâm và tâm sở, giữa tâm và tâm sở hoặc giữa tâm sở và tâm sở có những loại cùng nhau khởi dụng, nhưng cũng có những loại tính chất khác nhau nên không cùng khởi dụng. Những tâm và tâm sở cùng lúc khởi lại cùng duyên một cảnh thì gọi đó là tương ưng. Nếu phân biệt được như thế thì dễ dàng hiểu rõ được sự hoạt động phức tạp của nội tâm.
Nhân duyên: Là luận đề trọng yếu của Phật pháp. Yếu tố của nhân duyên là không giống nhau, ví dụ hạt giống và mầm, nước hay độ ẩm và mầm v.v. chúng cùng là nhân duyên nhưng ý nghĩa lại khác nhau. Vì thế, người xưa dựa vào kinh văn để phân biệt ra rất nhiều loại. Nhiếp, Tương ưng và Nhân duyên chính là Nhiếp tương ưng phần và Tự phần trong Xá Lợi Phất A tỳ đàm luận. Vấn phần là dùng “cộng tướng” để đặt vấn đề phân biệt hỏi đáp đối với từng pháp một (tự tướng). Không có cộng tướng phân biệt thì đó chẳng phải là vấn phần, hiểu được điều này thì thông suốt được ý nghĩa của pháp được đức Phật thuyết.
Trong luận cứu A tỳ đạt ma lại căn cứ theo từng loại mà tiến hành công việc soạn tập. Lấy một luận đề chủ nào đó rồi tổng hợp lại những lời kinh có liên quan, trong Xá Lợi Phất A tỳ đàm luận thì có phẩm Nghiệp, phẩm Nhân, phẩm Trí, phẩm Đạo, phẩm Phiền não, phẩm Xúc, phẩm Kết, phẩm Tâm, phẩm Định. Như phẩm Nghiệp là giải thích từ hai nghiệp cho đến mười bốn nghiệp, tức là tổng hợp những kinh có liên quan đến nghiệp rồi giải thích từng loại một, đây có thể ví như là cách sưu tập tư liệu vậy. Cách tập hợp của Xá Lợi Phất A tỳ đàm luận gọi là Thi thiết (Prajñāpti), như nói: “Kim đương tập giả kết chính môn” (nay đang tập hợp về kết chính môn); “Kim đương tập giả xúc chính môn” (nay đang tập hợp về xúc chính môn); “Kim đương tập giả tâm chính môn” (nay đang tập hợp về tâm chính môn)1. “Giả” là cách dịch khác của thi thiết (xử lý, thiết lập). Lại nói: “Kim đương tập chư đạo môn”; “Kim đương tập bất thiện phiền não pháp môn”1… có chỗ thì nói trực tiếp soạn tập, ngay cả “Kim đương tập… môn” cũng bị lược đi. Những phẩm như: phẩm Kết, phẩm Xúc, phẩm Tâm có cùng tính chất, nên phải gọi là “giả” - thi thiết. Phẩm Nhân rất gần với Nhân thi thiết luận, một trong sáu bộ luận điển của Nam truyền. Đời Triệu Tống, Thi thiết luận trong hệ thống Lục túc luận được ngài Pháp Hộ (Dharmapāla) dịch sang tiếng Hán thành bảy quyển, nội dung gồm: Thế gian thi thiết, Nhân thi thiết và Nghiệp thi thiết. Truyền thuyết nói bộ này gồm tám phẩm lớn nhưng Hán dịch không đầy đủ. Trong A Dục vương truyện chép: “Tạng Ma đắc lặc già, bao gồm giải thích bốn niệm xứ…, nguyện trí Tam muội, tăng nhất định pháp, bách bát phiền não, thế luận ký, kiết sử ký, nghiệp ký, định ký, tuệ ký v.v.”2. “Ký” cũng là cách dịch khác của thi thiết. Như đoạn văn ở trên có thể thấy có: thế gian thi thiết, nhân thi thiết, nghiệp thi thiết, kiết sử thi thiết, định thi thiết, tuệ thi thiết v.v. Đây là soạn tập theo từng loại, nêu ra vấn đề trọng yếu để làm hạng mục của luận cứu. Kiểu chia phẩm loại trong sách vở đời sau, đại đa số đều từ đó mà ra3.
1 Đàm Ma Da Xá và Đàm Ma Quật Đa dịch, Xá Lợi Phất A tỳ đàm luận, quyển 26. Đại chính tạng, quyển 28, trang 690b; quyển 27, (Đ28), trang 694c, 697b.
1 Đàm Ma Da Xá và Đàm Ma Quật Đa dịch, Xá Lợi Phất A tỳ đàm luận, quyển 15. Đại chính tạng, quyển 28, trang 625a; quyển 18, (Đ28), trang 646a.
2 An Pháp Khâm dịch, A Dục vương truyện, quyển 4. Đại chính tạng, quyển 50, trang 113.
3 Quá trình tập thành của luận thư, tham kiến Ấn Thuận, Thông qua Thuyết nhất thiết hữu bộ, nghiên cứu về luận thư và luận sư, Chính Văn xuất bản xã, Dân Quốc năm 81 (1992), chương 1, trang 23-40; chương 2, trang 66-90; chương 4, trang 136-171.
Trong bộ Nguồn gốc và sự diễn biến của văn học Tỳ đàm1, Lữ Trừng chủ yếu dựa vào Giải thâm mật kinh sớ (quyển 2) và Nhân vương kinh sớ (quyển 1) của Viên Trác, đồng thời dẫn Bộ chấp luận ký của Chân Đế (Pramātha) rồi nêu ra chủ trương “Phật nói chín phần Tỳ đàm” là nguồn gốc của tất cả A tỳ đàm. Chín phần gồm: “Phân biệt thuyết giới (luật), Phân biệt thuyết thế gian, Phân biệt thuyết nhân duyên, Phân biệt thuyết giới (cảnh giới), Phân biệt thuyết đồng tùy đắc, Phân biệt thuyết danh vị cú (danh cú văn), Phân biệt thuyết tập định, Phân biệt thuyết tập nghiệp, Phân biệt thuyết chư ấm (uẩn)”. Đoạn văn trên: “Phân biệt thuyết” chính là thi thiết; “danh vị cú” chính là huệ mà do dịch sai; đồng tùy đắc là sự tụ tập của chủng tử và tập khí, tương đương với phiền não tùy miên; thế gian là hiền thánh; chư ấm là khế kinh, giải thích như thế có chút miễn cưỡng. Nếu chín phần Tỳ đàm là do Phật thuyết, là nguồn gốc của Tỳ đàm thì sao lại có “đồng tùy đắc”? Bởi đây là từ ngữ đặc biệt chuyên dùng của Chính lượng bộ. Dịch phẩm của Chân Đế có rất nhiều chỗ dẫn dụng của Chính lượng bộ, bởi vì Chân Đế là người ở Ưu Thiền Ni, cả vùng này là thuộc về địa khu của Chính lượng bộ hoằng hóa. Do đó, chúng ta có thể đưa ra nhận định rằng, Chân Đế hoằng truyền chín phần Tỳ đàm chính là của Chính lượng bộ. Chín phần Tỳ đàm của Chính lượng bộ được phân từng bộ phận để hoằng truyền, và cũng chính là bản Phật thuyết A tỳ đàm kinh do Chân Đế dịch, tương truyền có chín quyển nhưng hiện tồn được hai quyển.
1 Lữ Trừng, Nguồn gốc và quá trình diễn biến của văn hiến Tỳ đàm, Thiên Hoa thư cục bản, trang 350-354.
Mở đầu kinh văn chép: “Nếu thấy được tướng mười hai nhân duyên sinh tức là thấy được pháp, thấy được pháp tức là thấy Phật”. Nhân duyên sinh được phân tích rộng ở trong ấy đại để tương đồng với Phật thuyết đạo cán kinh, đây chính là phần Phân biệt thuyết nhân duyên. Văn kinh chép: “Thứ luận luật tướng” chính là thảo luận từng bước của việc thọ giới pháp - Phân biệt thuyết giới. Ngoài ra, Chân Đế còn dịch bộ Lập thế A tỳ đàm luận, đoạn mở đầu chép: “Như Phật Bà Già Bà và A la hán thuyết”, có thể thấy được không chỉ riêng Phật nói, mà đã được các đệ tử Phật bổ sung thêm, có nội dung giống với Thế ký kinh trong Trường A hàm, là thi thiết về thế gian tam giới, tức là Phân biệt thuyết thế gian. Chính xác là Chân Đế hoằng truyền chín phần Tỳ đàm của Chính lượng bộ, mà Chính lượng bộ lại xuất sinh từ Độc tử bộ, cho nên giáo nghĩa của bộ phái này có khoảng cách tương đối xa đối với nguồn gốc Phật pháp. Thật ra, truyền thuyết cổ đại cho chín phần Tỳ đàm xác thực là do Phật thuyết, như trong Ma ha tăng kỳ luật1 chép: 1. “Chín bộ Tu đa la, gọi là A tỳ đàm”; 2. “A tỳ đàm là chín bộ kinh”; 3. “A tỳ đàm là chín bộ Tu đa la”. Chín bộ kinh (Tu đa la) dịch thành chín phần giáo, Phật thuyết chín phần giáo là “Tu đa la”, “Kỳ dạ”,… “Vị tằng hữu”. Chín phần giáo là rất hiếm có, rất sâu xa, được xưng tán thành A tỳ đạt ma hoặc A tỳ đạt ma Tỳ nại da. Truyền thuyết cổ đại nói A tỳ đàm có chín phần giáo là có từ lâu, về sau Chính lượng bộ cho rằng trong A tỳ đàm luận có chín phần giáo, đây mới là căn cứ vào giáo nghĩa của tông mình mà giải thích thành “Chín phần A tỳ đàm luận”. Thuyết này có từ thế kỷ VI, Chân Đế mang đến Trung Quốc, rốt cuộc nhận được sự đánh giá cao của các học giả nổi tiếng, và được xem là căn nguyên của Tỳ đàm, điều này có thể nói là ngoài ý muốn!
1 Phật Đà Bạt Đà La và Pháp Hiển dịch, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 22, trang 340c; quyển 24, Đại chính tạng, quyển 22, trang 501c; quyển 39, (Đ 22), trang 536b.