A Xà Thế (Ajātaśatru) giết vua cha Tần Bà Sa La (Bimbisāra) để soán ngôi, bảy năm sau (491 - 484 TCN), tại nước Câu Thi Na (Kuśinara) đức Thế Tôn nhập Niết bàn.
Sau khi đức Phật nhập Niết bàn, giới Phật giáo có hai việc lớn vô cùng quan trọng cần phải làm, đó là phân chia Xá lợi (śarīra) - “di thể” của Phật và lưu truyền chính pháp (dharma) - “Pháp thân” Phật.
Việc đầu tiên là phân chia Xá lợi (śarīra) của Phật: Dưới sự chủ trì của Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahākāśyapa), lễ trà tỳ nhục thân của Phật được cử hành long trọng. Theo lời di huấn của đức Thế Tôn, Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahākāśyapa) đã đem Xá lợi Phật chia cho tám vị vua của tám nước: Câu Thi Na (Kuśinara), Ma Kiệt Đà (Magadha), Thích Ca tộc (Śākya)… sau khi nhận được Xá lợi, họ trở về nước xây tháp (Stūpa) tôn thờ, tạo điều kiện cho hàng đệ tử Phật được chiêm ngưỡng lễ bái Xá lợi của Phật. Xây tháp là việc của hàng đệ tử tại gia của Phật.
Đến thế kỷ III TCN, sau khi A Dục vương (Aśoka) của vương triều Khổng Tước (Maurya) tự thấy ăn năn và hối hận về việc làm của mình nên đã xin quy y Phật, phát nguyện hộ trì Tam bảo, ông tập trung phần Xá lợi Phật mà trước đây đã phân chia cho tám nước lại, rồi phân ra đem cúng dường đến những nước Phật pháp đang được lưu hành. Đại đa số Xá lợi Phật đều được xây tháp tôn trí trong các tự viện làm biểu tượng tín ngưỡng, thờ phụng, thỏa mãn sự tôn kính và lòng mong nhớ của hàng đệ tử đối với đức Thế Tôn. Cũng từ đó, tháp Xá lợi và chùa của tăng chúng xuất gia có tương quan, chúng đệ tử xuất gia của Phật cũng từ từ đảm nhận trách nhiệm xây dựng và quản lý tháp thờ Xá lợi Phật. Tháp thờ Xá lợi Phật là tượng trưng cho sự hiện hữu của đức Phật. Vì Phật pháp lấy Tam bảo (Ratna-traya) làm nơi nương tựa, đức Phật nhập diệt, chúng sinh như con mất mẹ, lòng luôn tưởng nhớ đến Phật, nên tháp Xá lợi Phật là hình ảnh tượng trưng cho Phật bảo, điều này có thể hiểu được.
Càng trở về sau, việc cúng dường tháp Xá lợi càng xuất hiện nhiều hình thức khác nhau: Có khi bằng hương hoa, anh lạc, lọng báu, tràng phan, ẩm thực, ca múa kỹ nhạc, v.v. Từ đó, trong Phật giáo bắt đầu có những nghi thức cúng lễ như những tôn giáo khác.
Thiết nghĩ, khi đức Thế Tôn còn tại thế, ngoài việc thọ nhận ngày một bữa ăn ra, Ngài tuyệt đối không nhận những đồ cúng dường giống như vậy. Nay Ngài đã nhập diệt, tại sao phải cúng dường như vậy? Chẳng trách có người nói: “Thế Tôn đã dứt hẳn tham dục, sân khuể, ngu si, vậy thì dùng tháp này (trang nghiêm… ca múa kỹ nhạc... cúng dường tháp) để làm gì?”1. Điều này đúng là không hợp pháp. Nhưng vì đáp ứng nhu cầu của phần đông tín đồ, giúp họ phát khởi tín tâm và làm cho Phật pháp được truyền bá rộng rãi, gần gũi với quần chúng và thuận lợi cho việc giáo hóa, cho nên giới Phật giáo mới nhất trí xây tháp Xá lợi để cúng dường. Đồng thời, tháp được xây ngày càng nhiều, càng cao và càng trang nghiêm. Tháp Xá lợi cùng tăng chúng có sự liên quan mật thiết, sự trang nghiêm, hùng vĩ của tháp, chùa, tạo nên một luồng không khí mới, không phải là sự thuần phác ở thời đại đức Thế Tôn. Đây là một trong những phương tiện đặc biệt mà thời đại đức Thế Tôn không có, nó có tác dụng rất lớn đối với lý tưởng Phật đạo, quy hướng chúng sinh về với chính pháp.
1 Phật Đà Bạt Đà La và Pháp Hiển dịch, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33, Đại chính tạng, quyển 22, trang 478ab.
Xây dựng tháp Xá lợi Phật trang nghiêm, công đức cúng dường tháp Xá lợi Phật càng được tuyên dương xem trọng. Vì thế có người nói: “Đối trước tháp Xá lợi Phật mà phát tâm cúng dường thì phúc quả là rất lớn” - được giải thoát, thành Phật đạo2. Trang nghiêm cúng dường tháp Xá lợi Phật chính là nêu cao sự thần kỳ linh cảm của Xá lợi Phật. Đồng thời mang ý nghĩa trọng đại cho việc hoằng dương của Phật giáo Đại thừa1. Như trong bộ Thiện kiến luật Di sa tắc của Nam truyền chép:
2 Thế Hữu, Dị bộ tông luân luận, Đại chính tạng, quyển 49, trang 17a.
1 Ấn Thuận, Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi khởi nguyên dữ khai triển, (sđd) chương thứ hai, trang 43-102.
“Từ đỉnh đầu voi, Xá lợi bay lên hư không cao rằng bảy cây Đa la, hiện ra nhiều sự biến hóa với năm màu ròng, khi tuôn nước, khi phun lửa, hoặc biến hiện đồng thời không khác gì thần lực của Thế Tôn thị hiện ở cây Kiền thát am bà (Gandambamùla) lúc Ngài còn tại thế… lấy Xá lợi an trí vào trong tháp xong, cả đại địa chấn động theo sáu cách”2.
2 Tăng Già Bạt Đà La dịch, Thiện kiến luật Di sa tắc, Đại chính tạng, quyển 24, trang 691 ac.
Thứ hai là việc lưu truyền pháp thân Phật - Chính pháp (dharma). Đức Thế Tôn thuyết giáo và chế giới luật (vinaya) được Tăng già (Saṅgha) chuyên tâm truyền tụng và thực hành, cũng có một bộ phận truyền tụng giữa nhân gian.
Sau khi đức Thế Tôn vào Niết bàn, để tránh việc giáo pháp và giới luật Phật chế ngày sau bị quên lãng, mất mát, hoặc không được đồng bộ giữa các vùng của Phật giáo, nên đại hội kết tập (saṃgīti) đã được cử hành. Việc kết tập kinh luật này là do Tôn giả Đại Ca Diếp phát khởi, địa điểm kết tập là hang Thất Diệp (saptaparṇa-guhā) thuộc thành Vương Xá (Rāja-gṛha) thủ đô của nước Ma Kiệt Đà (Magadha), thành phần nhân sự gồm 500 vị A la hán cùng kết tập để tránh sự sai sót và không đồng bộ. Việc này rất hợp tình hợp lý, là trọng trách lớn lao của chúng đệ tử xuất gia phải gánh vác. Ý nghĩa hình thức là hợp tụng, tụng lại pháp, luật và kinh rồi đại chúng cùng thẩm định, xác nhận là do đức Phật thuyết và chế ra, sau đó mới phân loại. Bấy giờ, việc kết tập giới luật do Tôn giả Ưu Ba Li (Upāli) chủ trì, kết tập kinh pháp do Tôn giả A Nan (Ānanda) chủ trì.
Nội dung kết tập: “Pháp”, phân pháp đức Phật đã thuyết thành uẩn, xứ, duyên khởi, thực, đế, giới, Bồ đề phần, v.v. gọi là Tương ưng Tu đa la, tức tập hợp lại những pháp do Phật thuyết có nội dung cùng loại, như uẩn với uẩn là đồng loại tập hợp thành Uẩn tương ưng. “Luật” là giới - học xứ (śikṣāpada), do đức Thế Tôn chế ra cho chúng xuất gia hành trì, nội dung phân thành năm thiên, gọi là Ba la đề mộc xoa (prātimokṣa), tức là giới kinh mà chúng đệ tử nửa tháng tụng một lần. Về sau, lại tập thành Kỳ dạ (geya) và Ký thuyết (vyākaraṇa) - “Đệ tử ký thuyết” và “Như Lai ký thuyết”. Kỳ dạ vốn là kệ tụng của thế tục, sau khi kết tập kinh luật xong, cứ mười kinh thì chép thành một bài kệ tụng để tiện bề ghi nhớ, nên gọi là Kỳ dạ.
Kinh pháp được tập hợp lưu truyền bao gồm nội dung thuyết cho loài người và cõi trời bằng những bài kệ tụng thông dụng, gọi chung là Kỳ dạ. Những kệ tụng lưu truyền tương đối trễ hơn và không được biên tập, như Nghĩa phẩm (arthavargīya), Ba la diên (pārāyana)…, kệ biểu đạt Phật pháp được gọi là Già đà (gātha). Đức Phật do cảm hứng mà nói kệ, gọi là “Vô vấn tự thuyết” - Ưu đà na (Udāna). Ưu đà na trở thành từ chung của kệ tụng, như Pháp cú (Dharma-pada) được gọi là pháp Ưu đà na. Thể kệ tụng được giới hạn ở số chữ, có vần có điệu, ý nghĩa tương đối đại khái; kệ tụng mang âm hưởng văn nghệ, dùng từ được gọt giũa, cho nên trong Phật pháp, Kỳ dạ được cho là “bất liễu nghĩa”. Trong luật cũng có Kỳ dạ đó là quy chế thông thường trong Tăng đoàn mà ban sơ được gọi là “Pháp tùy thuận pháp kệ”. Pháp được ký thuyết có “Đệ tử ký thuyết” và “Như Lai ký thuyết”. Đối với lý sự sâu kín thì ký thuyết có tính chất rõ ràng, quyết định, cho nên thuộc vào hệ pháp “liễu nghĩa”.
Luật cũng có ký thuyết, gọi là “Giới kinh” phân biệt giải thuyết, như Ba la đề mộc xoa phân biệt v.v. Trong pháp và luật đều có Tu đa la, Kỳ dạ, Ký thuyết, tức là “9 phần (hoặc 12 phần) giáo” (navāṅga-vacana) xuất phát từ ba loại trên. Ba phần ban đầu của pháp, tương đương với Tạp (tương ưng) A hàm kinh của Hán dịch và Tương ưng bộ của Nam truyền Pàli tạng.
Sau lần kết tập thứ nhất (hoặc gọi là Ngũ bách kết tập), Phật pháp không ngừng truyền đi khắp các nơi, do những vị thầy truyền giảng kinh và luật, phân biệt thẩm định và bảo tồn. Đến 100 năm sau đức Thế Tôn vào Niết bàn, vì vấn đề Tỳ kheo có được nắm giữ vàng bạc hay không? Từ đó phát sinh sự tranh luận dữ dội giữa các Tỳ kheo ở hai miền Đông và Tây lúc bấy giờ, và cũng từ đó dẫn đến việc kết tập kinh điển lần thứ hai - Tỳ Xá Ly (Vaiśālī) (hoặc gọi là Thất bách kết tập). Bởi nhân số đông, hai miền Đông Tây tự phái người đại biểu, đại biểu các bên căn cứ theo kinh luật để cùng thẩm định. Đối với vấn đề gây tranh cãi của hai bên (miền Tây đề xuất mười việc phi pháp), căn cứ vào luật tạng hiện tồn ghi chép, Phật giáo miền Đông thừa nhận mình không đúng như pháp, từ đó Tăng già trở lại hòa hợp như cũ. Bởi nhân duyên tập hội, Tăng già lại tiến hành kết tập kinh luật lần thứ hai.
Phương diện kinh pháp bao gồm 5 bộ:
1. Tạp A hàm, Nam truyền gọi là Tương ưng bộ;
2. Trung A hàm, Nam truyền gọi là Trung bộ;
3. Tăng nhất A hàm, Nam truyền gọi là Tăng chi bộ;
4. Trường A hàm, Nam truyền gọi là Trường bộ;
5. Tạp tạng, Nam truyền gọi là Tiểu bộ.
Riêng Tạp tạng ở các bộ phái có sự khác biệt rất lớn. Hiện tại ở Tích Lan, Tiểu bộ của Nam truyền tổng cộng gồm 15 loại hình: Tiểu tụng, Pháp cú, Tự thuyết, Như thị ngữ, Kinh tập, Thiên cung sự, Ngạ quỷ sự, Trưởng lão kệ, Trưởng lão ni kệ, Bổn sinh, Nghĩa thích, Vô ngại giải đạo, Thí dụ, Phật chủng tính, Sở hành tạng.
Pháp cú và Kinh tập tương đối cũ; các phần khác có một số được biên vào khá muộn. Phương diện Giới luật, phân chia điều khoản trong Ba la đề mộc xoa càng thêm chi li, ngoài các kệ tụng vốn có từ Ngũ bách kết tập, lần này còn bổ sung thêm một số tịnh pháp. Phần này, Thượng tọa bộ (Sthavira) gọi là (luật) Bổn mẫu (Mẹ gốc) - Ma đắc lặc già (Mātṛkā); Đại chúng bộ (Mahāsaṁghika) gọi là Tạp phẩm, tức là Pháp tùy thuận pháp kệ. Thượng tọa bộ đã tập thành rất nhiều các loại Kiền độ (khaṇḍa), hoặc gọi là pháp (dharma), sự (vastu), tất cả đều dựa vào Ma đắc lặc già mà biên soạn thành.
Như trên đã nêu, kinh luật do các phái hoằng truyền, nội dung đều có sự chênh lệch. Đại để chủ yếu là do sự thành lập bộ phái, đối với Kinh pháp và Giới luật đều được cộng đồng các bộ phái kết tập lại. Nhưng phần lớn nội dung của kinh luật được kết tập thành như thế đều được toàn bộ giới Phật giáo công nhận, và có thể suy đoán được đó là những vấn đề (tình hình) đã có trước lúc chưa phân chia bộ phái. Đương thời, việc tập thành kinh luật vẫn chưa có sự ghi chép cụ thể, chỉ truyền nhau bằng miệng để tụng tập1. Xích đồng diệp bộ (Tāmraśātīya) Nam truyền Tích Lan (thuộc Thượng tọa hệ) cho rằng: “Sau khi Thất bách kết tập xong, Thượng tọa hệ lập tức trục xuất nhóm ác Tỳ kheo Bạt Kỳ (Vajjaputtaka) hơn một vạn người. Nhóm này tập hợp nhau lại tổ chức kết tập kinh luật, gọi là Đại hợp tụng - Đại kết tập, và hình thành Đại chúng bộ”1. Song, theo luật của Đại chúng bộ - Ma ha Tăng kỳ luật hệ Hán dịch thì trong đại hội Thất bách kết tập, thừa nhận việc Tỳ kheo cầm nắm vàng bạc là phi pháp2. Tuy nhiên, Phật giáo miền Đông do nhóm Bạt Kỳ lãnh đạo lại phủ nhận tính hợp pháp của đại hội Thất bách kết tập, tự mình nhóm chúng để hợp tụng kết tập và hình thành ra Đại chúng bộ. Thế thì vì sao Ma ha Tăng kỳ luật lại đồng ý việc Tỳ kheo cất giữ vàng bạc là phi pháp? Cho nên, truyền thuyết như trên của Xích đồng diệp bộ là không đủ để chứng minh, không đáng tin. Do hai miền Đông Tây cử người đến tham dự đại hội, cử hành giải quyết những tranh luận tồn tại, căn cứ vào luật thì đã có sự kết thúc tốt đẹp, cho nên các Tỳ kheo thuộc miền Đông không thể nảy sinh ra những dị nghị. Hơn nữa, đại hội được cử hành tại Tỳ Xá Ly, mà Bạt Kỳ là thuộc đa số dân tộc của thành Tỳ Xá Ly. Nếu trục xuất Bạt Kỳ và hơn một vạn Tỳ kheo bản địa là trục xuất khỏi Tăng đoàn hay là trục xuất ra khỏi bản địa? Các Thượng tọa đến từ miền Tây có khả năng làm được điều đó chăng? Vậy thì chi bằng các vị Thượng tọa miền Tây đồng ý với Bạt Kỳ việc nắm giữ vàng bạc (mười việc) ấy là hợp pháp. Cho nên truyền thuyết này là bởi đố kỵ mà truyền vậy thôi. Ngoài ra, miền Bắc lại còn có một truyền thuyết khác, họ cho rằng, kết tập lần thứ nhất kết thúc, hơn một vạn Tỳ kheo ở ngoài không đồng ý thiểu số kết tập, nên kéo đi chỗ khác để kết tập, gọi là “Giới ngoại kết tập”, do đó Đại chúng bộ được thành lập1. Thuyết này nêu thời gian thành lập của Đại chúng bộ lại sớm hơn, và việc kết tập được cho là đa số, nhưng như thế cũng không đủ chứng cứ để khẳng định. Căn cứ vào Tăng kỳ luật, đại hội Thất bách kết tập, các Tỳ kheo hai miền Đông Tây cùng luận định, Tăng già trở lại hòa hợp như trước. Trước khi các bộ phái chưa phân chia, Tăng đoàn vẫn trong tinh thần hòa hợp, gọi đây là Phật giáo Nguyên thủy.
1 Tình hình kết tập kinh luật, tham kiến Ấn Thuận, Nguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, Chính Văn xuất bản xã, Dân Quốc năm 91 (2002).
1 Đảo sử, Nam truyền, quyển 60, trang 34.
2 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33, Đại chính tạng, quyển 22, trang 493c.
1 Huyền Trang, Đại Đường Tây Vực ký, quyển 9, Đại chính tạng, quyển 51, trang 923a.