Phật giáo là do đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập, những hành trạng và sự tích tự giác, giác tha về cuộc đời của Ngài đã lưu truyền trong Tăng già (Saṅgha) và giữa nhân gian, thấm nhuần trong tâm khảm của mọi người con Phật. Những sự tích liên quan đến Ngài chủ yếu được rút ra từ Luật bộ.
Thứ nhất, để trình bày sự thành lập Tăng già, nên nêu rõ những sự kiện từ xuất gia, tu hành, thuyết pháp của đức Thế Tôn cho đến năm thứ sáu Ngài thành Phật, đến lúc trở về thành Ca Tỳ La Vệ thăm người thân, giáo hóa dòng họ Thích là chấm dứt. Về sau lại thêm vào phần nhân duyên Đản sinh (hoặc sớm hơn) biên tập thành Phật truyện. Phần này được các đại sư phái Ma ha tăng kỳ gọi là Đại sự, các đại sư phái Tát bà đa (Thuyết nhất thiết hữu) gọi kinh này là Đại trang nghiêm, các đại sư phái Ca Diếp Duy (Ẩm quang) gọi kinh này là Phật vãng nhân duyên, các đại sư phái Đàm Vô Đức gọi kinh này là Thích Ca Mâu Ni Phật bổn hạnh, các đại sư phái Di sa tắc (Hóa địa) gọi kinh này là Tỳ ni tạng căn bản1.
1 Xà Na Quật Đa dịch, Bổn hạnh tập kinh, quyển 60. Đại chính tạng, quyển 3, trang 932a.
Thứ hai, đó là những năm cuối đời của đức Thế Tôn, Ngài đã thực hiện chuyến du hành lần cuối cùng đến Câu Thi Na (Kuśinagara) nhập Niết bàn. Những sự tích này ban đầu cũng được ghi chép trong Luật bộ, như trong Hữu bộ Tỳ nại da tạp sự cũng có đề cập đến; Đại tỳ bà sa luận cũng nói: “Như việc (Thế Tôn) đại Niết bàn, người trì luật nói…”1. Phần này được bổ sung thêm, tập hợp thành Du hành kinh (tương đương Đại Niết bàn kinh thuộc Nam truyền) và chép vào A hàm kinh. Hai phần này tập hợp lại, như trong Phật sở hành tán và Phật bổn hạnh kinh… là toàn bộ Phật truyện hiện còn. Nhưng kể từ khi về thăm lại Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) trở về sau và từ chuyến du hành cuối cùng trở về trước, hơn ba mươi năm, vết tích giáo hóa của Ngài tuy được ghi lại trong vô số mẩu chuyện, nhưng lại trình bày thiếu thứ tự trước sau.
1 Nghĩa Tịnh dịch, Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da tạp sự, quyển 35-39. Đại chính tạng, quyển 24, trang 382c-402c; Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 126. Đại chính tạng, quyển 27, trang 660a.
Về niên đại xuất thế của đức Thế Tôn, do nguồn chính sử của Ấn Độ cổ đại thiếu sự chính xác, vì thế rất khó để xác định được. Những nghiên cứu gần đây về niên đại của A Dục vương (Aśoka) đã đưa ra những kết quả tương đối chính xác, cũng chính nhờ đó mới có sự đáng tin để luận định về niên đại của đức Thế Tôn. Bởi vì lịch sử lưu truyền trong giới Phật giáo, từ khi đức Phật vào Niết bàn đến lúc A Dục vương tức vị là cách khoảng bao nhiêu năm, căn cứ vào đó mà có thể suy định được niên đại của Ngài khi còn tại thế. Những kết quả nghiên cứu của giới học giả về niên đại A Dục vương tức vị cũng có sự chênh lệch khoảng hai đến ba năm. Ở đây xin căn cứ vào thuyết năm tức vị của vua A Dục là năm 271 TCN. Nhưng giới Phật giáo lại phân vân trước nhiều thuyết, lịch sử cổ xưa truyền lại gồm ba thuyết:
1. Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin)…, như trong Thập bát bộ luận nói: “Sau khi Phật vào Niết bàn được 116 năm, ở địa phương Ba Liên Phất, vua A Dục lên làm vua cõi Diêm phù đề”1. Căn cứ vào thuyết này, Thế Tôn vào Niết bàn vào năm 387 TCN; cộng với Ngài sống được 80 tuổi, như thế năm đản sinh của Ngài phải là năm 467 TCN.
1 Chân Đế dịch, Thập bát bộ luận. Đại chính tạng, quyển 49, trang 18a. Bộ chấp dị luận. Đại chính tạng, quyển 49, trang 20a.
2. Nam truyền Xích đồng diệp bộ (Tāmraśātīya) truyền lại, như trong Thiện kiến luật Tỳ bà sa chép: “A Dục vương lên ngôi vua cách năm Phật nhập Niết bàn là 218 năm”2. Căn cứ vào thuyết này thì đức Thế Tôn vào Niết bàn là năm 489 TCN, và năm đản sinh là năm 569 TCN.
2 Chân Đế dịch, Tăng Già Bạt Đà La dịch, Thiện kiến luật Tỳ bà sa, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 24, trang 679c; Nhất thiết thiện kiến luật chú tự, Nam truyền quyển 65, trang 55.
3. Trong Dị bộ tinh thích của Thanh Biện (Bhavya) chép: “Sau khi đức Thế Tôn vào Niết bàn, trải qua 160 năm sau, Đạt ma A Dục vương tại thành Câu Tô Ma Phất chi phối đế quốc”1, đây có thể là truyền thuyết của Thượng tọa bộ. Căn cứ vào thuyết này, đức Thế Tôn vào Niết bàn năm 431 TCN, Ngài đản sinh năm 511 TCN. Thuyết A Dục vương lên ngôi cách năm Phật nhập Niết bàn 116 năm của Thuyết nhất thiết hữu bộ là một trong những thuyết xưa, mọi người đều cho là do viết nhầm từ 160 thành 116, không được xem trọng. Hai thuyết 116 năm với 160 năm có khả năng là một, nhưng do viết nhầm nên trở thành hai thuyết, cũng giống như 108 pháp môn mà viết thành 800 pháp môn. Đại đa số học giả cho thuyết của Nam truyền Xích đồng diệp bộ là đáng tin cậy, có người lấy Chúng thánh điển ký ra để đối chứng. Mỗi năm đến ngày tự tứ, sau khi tụng giới xong thì chấm vào Giới kinh một chấm, năm nào cũng như thế, đếm trên giới bản có bao nhiêu chấm là đức Phật vào Niết bàn bấy nhiêu năm. Nói như trên dường như có căn cứ đáng tin cậy, nhưng thực ra đương thời Ấn Độ hoàn toàn không có một giới bản nào được viết ra (thế kỷ V, giới bản viết bằng tay không nhiều), việc mỗi năm đến ngày tự tứ tụng giới, dùng mực đánh dấu trên giới bản là không xác thực. Nói đến việc A Dục vương tức vị cách năm Phật nhập Niết bàn bao nhiêu năm, ba thuyết trên đều là những thuyết cổ xưa, và chỉ nêu ra chứ không thể khảo cứu một cách tường tận được, tuy nhiên thuyết A Dục vương lên ngôi cách năm Phật diệt độ 160 năm có lẽ là thuyết đáng được tin cậy nhất.
1 Tāranātha, Ấn Độ Phật giáo sử, (Uyển Nhã của Nhật Bản dịch, trang 375) dịch giả phụ chú sở dẫn.
Đức Thế Tôn đản sinh trong dòng họ Thích Ca (Śākya), thuộc vương thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), nay là phía Đông của sông Rāpti thuộc miền Nam Nepal. Theo truyền thuyết hai bên bờ sông Rohinī (nay là sông Kohāna) có tất cả mười thành, thành Ca Tỳ La Vệ nằm về Tây Bắc của sông, thuộc quyền trị vì của vua Tịnh Phạn (Śuddhodana) - phụ vương của đức Thế Tôn, nay là địa khu Tilorakot của Nepal. Từ vùng đất dòng họ Thích cư trú men theo triền Đông dãy Tuyết Sơn (Himālaya) là đến Lam Mạc (Rāma-grāma), nơi dòng họ Câu Lợi (Koli) cư trú. Hai dòng họ này là thông gia với nhau. Tiếp tục hướng về phía Đông, đến Câu Thi Na (Kuśi-nagara) - nơi đức Thế Tôn vào Niết bàn, vùng này là nơi cư trú của dòng họ Malla. Hướng về phía Nam đến Tỳ Xá Ly (Vaiśalī) là dòng họ Bạt Kỳ (Vaji). Dòng họ Bạt Kỳ gồm có tám chi nhánh, nhánh quý tộc lãnh đạo là Lê Xa (Licchavi). Ngoài ra còn có dòng tộc Tô Ma (Himā), là dân tộc thuộc vùng Nepal. Những dân tộc sống ở miền Đông Ấn Độ này đều có sự thân cận với dòng họ Śākya. Như Tôn giả Ānanda - người em chú bác với đức Phật, được gọi là Tỳ Đề Ha Mâu Ni (Videhameni); Bà la môn thường gọi đức Thế Tôn là Vaiśālīka, tức là người xứ Tỳ Xá Ly. Thị trấn Pāvā là nơi đức Thế Tôn thọ nhận sự cúng dường lần cuối cùng của ông Thuần Đà (Cunda). Bởi ở đại hội Thất bách kết tập có một Tỳ kheo người xứ Pāvā nói rằng: “Thế Tôn đản sinh tại nước Ba Di Na (Pāvā), lành thay đại đức! Hãy giúp Tỳ kheo ở Ba Di Na”1. Các Tỳ kheo Bạt Kỳ, v.v. đều cho rằng họ cùng một tộc hệ với dòng họ Thích Ca. Ngoài những bản sử dụng tiếng Phạn của Thuyết nhất thiết hữu bộ ra, trong các truyền thuyết của Phật giáo đều chép dòng họ Thích Ca là dân tộc ở miền Đông Ấn, men theo rặng Tuyết Sơn di dân về miền Tây có cùng một dòng tộc lớn với dòng họ Bạt Kỳ, v.v. Cho nên, trong Trường A hàm kinh nói có sáu dòng tộc quy y theo Phật: “Śākya, Koli, Mina, Vaji, Malla, Himā”.
1 Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch, Tứ phần luật, quyển 54. Đại chính tạng, quyển 22 trang 970b.
Thời đại đức Phật, nước Ma Kiệt Đà chọn thành Vương Xá bên bờ Nam sông Hằng (Gangā) làm thủ đô, phát triển hưng thịnh. Từ phía Tây tiến vào, vùng đất đầu tiên của dòng họ Thích là tiếp giáp với thành Xá Vệ (Śrāvatī), thủ đô của nước Kiều Tát La (Kośalā) phía Bắc. Kỳ thật là đương thời dòng họ Thích bị phụ thuộc vào Kiều Tát La, vì nước này là đại biểu cho người Ārya (hoặc chuẩn người Ārya), còn Ma Kiệt Đà (Magadda) là nơi lục sư ngoại đạo thịnh hành, đại biểu cho trung tâm đối kháng với tôn giáo miền Tây. Dòng họ Thích Ca thuộc miền Đông, lại giáp ranh với miền Tây, điều này giúp chúng ta hiểu rõ hơn lập trường của đức Thế Tôn, đó là đặc tính tư tưởng không bị rơi vào nhị biên2.
2 Tham kiến Ấn Thuận, Sự hưng khởi của Phật giáo đối với miền Đông Ấn Độ, Dùng Phật pháp nghiên cứu Phật pháp, thuộc Diệu vân tập, tập 3 hạ), Chính Văn xuất bản xã, Dân Quốc 89 (2000), trang 50-70.
Đức Thế Tôn đản sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbinī), nay là địa khu Tarai của Nepal, Ngài mang họ Cù Đàm (Gautama), là thái tử Tất Đạt Đa (Siddārtha) con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya (Mahāmāyā). Theo truyền thuyết, vào khoảng bảy ngày sau khi đản sinh Ngài, thì mẹ Ngài là hoàng hậu Maya qua đời, vì thế việc nuôi dưỡng Thái tử là do di mẫu Ma Ha Bà Xa Bà Đề (Mahāpajāpatī) đảm nhiệm. Khi vừa được sinh ra, Ngài đã được vị tiên tri tiên đoán: “Nếu xuất gia, Thái tử sẽ thành tựu Nhất thiết chủng trí; nếu làm vua thì sẽ làm đến bậc Chuyển luân vương”1.
1 Huyền Ưng soạn, Quá khứ hiện tại nhân quả kinh, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 3, trang 626c.
Chuyển luân vương (Cakra-varti-rājna) là vị vua nhân từ, không dùng vũ lực, cũng không đi lấn chiếm thuộc địa, cướp đoạt kinh tế, mà dùng mười điều thiện để cai trị và khuyến hóa dân chúng, khiến cho thế gian sống hòa bình, sung túc, an lạc, thống nhất2.
2 Thế ký kinh 30, thuộc Trường A hàm kinh. Đại chính tạng, quyển 1, trang 119b-121a.
Nhất thiết chủng trí (Sarvathā-jñāna) chính là Phật (Buddha), Phật là người giác ngộ triệt để về thực tướng của nhân sinh, giáo hóa xiển dương chính pháp, khiến cho nhân loại đạt đến bình đẳng và tự do đích thực. Bấy giờ, tư tưởng tôn giáo xu hướng theo lối cực đoan; phương diện chính trị thì kẻ mạnh lấn lướt kẻ yếu và tiến hành thôn tính nhau. Cho nên, Luân vương là nhu cầu chính trị mới của nhân loại, đức Phật là khát vọng tôn giáo mới của nhân loại, đức Thế Tôn đã ra đời trong thời đại như thế.
Từ nhỏ, đức Thế Tôn đã được hấp thụ nền giáo dục hoàn hảo của vương tộc Śākya, cưới Da Du Đà La (Yasodhara) làm phi, sinh con trai La Hầu La (Rahula), sống đời sống tôn quý vinh hoa của bậc vương giả, hưởng thụ cuộc sống nhung lụa giàu sang, v.v. Song, từ trong sâu thẳm lòng Ngài lại khởi lên ý niệm không chấp nhận với cuộc sống hiện thực. Truyền thuyết ghi lại:
Lý do đầu tiên là bởi Ngài nhìn thấy những người nông phu cày cuốc trên ruộng, như trong Phật sở hành tán ghi: “Bên đường Thái tử thấy người nông phu cày ruộng, từng lát đất lật lên, giết chết các côn trùng, lòng Ngài thấy xót xa, đau đớn như có cây giáo nhọn đâm xuyên qua tim mình. Lại thấy người nông phu cực nhọc, thân thể gầy guộc, trên đầu mồ hôi ướt đẫm, toàn thân lấm đất bụi. Trâu cày kéo mệt lả, thở hồng hộc như muốn đứt hơi. Thái tử bẩm tính từ bi, lòng vô cùng thương xót…”1. Ngài nhìn thấy sự cực nhọc của thân phận những người nông dân nghèo khổ, làm việc quần quật không được nghỉ ngơi, những sinh linh khác lại tàn hại lẫn nhau để bảo tồn sự sống, bất giác cảm thấy thương cảm, Ngài ngồi xuống gốc cây bên đường thiền định suy tư sâu xa.
1 Mã Minh, Phật sở hành tán, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 3, trang 8c.
Thứ hai, một lần dạo chơi ngoài thành, nhìn thấy người già, thân thể gầy guộc, đi đứng lom khom; người mắc bệnh đang nằm quằn quại với những cơn đau kéo dài; người chết dung mạo biến đổi, Ngài cảm nhận sâu sắc về sự vô thường của kiếp nhân sinh. Đồng thời, do chịu ảnh hưởng trào lưu tư tưởng giải thoát của tôn giáo lúc bấy giờ, năm mười chín tuổi (có thuyết cho là hai mươi chín tuổi), Ngài đã rời bỏ chốn hoàng cung, sống đời sống của Sa môn (Śramara) để tìm cầu sự giải thoát cứu cánh cho mình và người.
Bấy giờ, hạnh Sa môn xuất gia là tình hình chung của tôn giáo mới ở miền Đông nước Ấn. Song, theo Phật pháp: “Nhà” là tổ hợp vật chất của từng cá nhân, mà người nam và người nữ tranh nhau chiếm hữu, từ đây phát triển tiếp, trở thành sự tranh đấu xâm chiếm nhau của con người trên thế gian, khiến cho khổ đau không dứt1. Xuất gia chỉ là để khám phá tự ngã, dẹp bỏ tất cả những cái thuộc về mình, cầu đạt được đời sống giải thoát.
1 Thế ký kinh 30, thuộc Trường A hàm kinh. Đại chính tạng, quyển 1, trang 147c-148c.
Để cầu được giải thoát, Ngài đã xuôi về miền Nam, tham vấn các bậc đạo sư từng đưa ra những học thuyết danh tiếng đương thời, như A La La Ka La Ma (Ārāma-kālāma), Uất Đầu La Ma Tử (Udrakarāma-putra) để học tập thiền định cao thâm của họ. Nhưng khi học đã thành, Ngài lại không thể đạt được sự giải thoát mà mình cần tìm. Vì vậy, Ngài tiếp tục đi đến thôn Ưu Lâu Tần Loa (Uruvilvā) để chuyên tu khổ hạnh; điều tiết hơi thở, ngưng thở, ăn ít, rồi tuyệt thực… Khổ hạnh tinh nghiêm như thế, đến nỗi cái chết kề cận mà vẫn không được giải thoát, tất cả đều không làm thỏa chí nguyện của Ngài. Vì thế Ngài quyết từ bỏ con đường tu khổ hạnh, ăn uống bình thường trở lại.
Như vậy, đức Phật đã từ bỏ cuộc sống hưởng thụ dục lạc của vương cung, và đến cả con đường tu tập thiền định khổ hạnh Ngài cũng từ bỏ. Sự học tập, sự hiểu biết của Ngài đã quá xuất chúng và vượt lên trên các bậc đạo sư mà mình từng thọ giáo. Từ đó, Ngài nhận ra được, tất cả những sự tu hành ấy không đưa đến sự giải thoát khổ đau của cuộc đời con người, và thế là lại một mình tiếp tục dấn thân trên hành trình mới tìm đạo cứu khổ cho muôn loài.
Sau khi nhận bát sữa cúng dường từ một cô gái chăn bò, đức Thế Tôn đến bên bờ sông Ni Liên Thiền (Nairañjanā) tắm gội, sức khỏe dần dần hồi phục lại đôi chút. Tắm gội xong, Ngài lên bờ phía Đông, trải cỏ dưới một cội cây lớn để thiền định, cội cây ấy nay chính là Phật Đà Già Da (Buddhagayā) người ta quen gọi là cội Bồ đề. Ở đây, Ngài lập nguyện và thệ rằng: “Nay nếu Ta không chứng được quả đại Bồ đề vô thượng, thà thịt nát xương tan, nguyện không rời khỏi chỗ ngồi này”1. Ngài bắt đầu thiền định, ban đầu Ngài đi vào cảnh tứ thiền, ở trong định khởi tâm chính quán pháp Duyên khởi (pratītya-samutpāda), cuối cùng Ngài chứng được sự tịch diệt (vyupaśama) của pháp Duyên khởi, vượt ra khỏi tất cả chướng ngại, thành tựu viên mãn quả vị giác ngộ giải thoát, trở thành bậc toàn giác. Đức Phật nói lên niềm tin của sự giải thoát tự giác mà Ngài đã chứng được: “Nhất thiết trí là trên hết, không phiền lụy không chút đắm nhiễm; sự chứng đắc của Ta không nhờ vào thầy dạy, tự nhiên thông Thánh đạo, duy nhất không có gì sánh bằng, có thể khiến cho cuộc đời an ổn”1. Nội dung tu chứng của đức Thế Tôn được gọi là “đạo của cổ tiên nhân”, “cung điện vua xưa”2. Đức Phật không thầy mà tự ngộ là một sáng kiến độc đáo, kỳ thật không phân biệt cổ kim trong ngoài, tất cả những gì bậc thánh có được đều từ tất cả những gì đã chứng đắc, đạo lớn rộng lớn và vĩnh hằng. Điều đó làm cho Phật pháp khác với các thần giáo, đức Phật không phải là một vị thần, cũng không phải là con hay sứ giả của vị thần nào cả, đức Phật từ thân phận con người mà trở thành một bậc thánh chính giác giải thoát.
1 Địa Bà Ha La dịch, Phương quảng trang nghiêm kinh, quyển 8. Đại chính tạng, quyển 3, trang 588a.
1 Phật Đà Thập, Trúc Đạo Sinh dịch, Di sa tắc bộ Hoà hê ngũ phần luật, quyển 15. Đại chính tạng, quyển 22, trang 104a.
2 Tạp A hàm kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 2; Nhân duyên tương ưng kinh thuộc Tương ưng bộ, quyển 12, Nam truyền, quyển 13, trang 154.
Một sự khác biệt khá rõ ràng là Phật giáo không như thần giáo lấy tôn giáo làm “mối quan hệ giữa người với thần”, mà là sự triệt ngộ của nhân loại, thể hiện chân lý, đạt được sự an lạc tự tại và thanh tịnh vĩnh hằng. Đức Phật là con người, mà sự “dũng mãnh”, “ức niệm” (trí tuệ), “phạm hạnh” của con người đến cả thần (thiên) giới cũng không thể bằng được1. Cho nên, việc cứu cánh thành Phật, không phải là thiên thần và cũng không phải một đấng Thượng đế trên trời nào làm được, mà chỉ có người nhân gian mới có đủ nhân duyên để thực hiện. Như trong kinh Phật dạy: “Ta nay cũng là con người”; “Tất cả các đức Phật, Thế Tôn đều xuất thân từ con người, không phải từ trời”2.
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 172. Đại chính tạng, quyển 27, trang 867c.
2 Tứ ý đoạn phẩm 26, thuộc Tăng nhất A hàm kinh. Đại chính tạng, quyển 2, trang 627b; Đẳng kiến phẩm 34. Đại chính tạng, quyển 2, trang 698a.
Sau khi đức Thế Tôn thành Phật, suốt bốn mươi chín (bốn mươi lăm) năm, dấu chân của Ngài in khắp các nước dọc theo hai bờ dòng sông Hằng, để giáo hóa nhân loại, không như thần giáo, hóa làm cầu vồng mà đi. Đức Thế Tôn hiện sinh một con người đích thật có “cha mẹ sinh thân, tự thân trực chứng quả vị đại giác”; “ngay thân người thành Phật”, khai sáng ra tôn giáo của nhân loại.
Sau khi thành chính giác, đức Phật nhập định tư duy suốt bốn mươi chín ngày, thọ hưởng pháp lạc giải thoát của thiền định, cùng lúc Ngài cảm thấy chính pháp (saddharma) quá uyên thâm, mà chúng sinh (sattva) thì vẫn còn si mê đắm trước, do đó mới có truyền thuyết là Ngài do dự không muốn vận chuyển bánh xe chính pháp, như trong Ngũ phần luật chép:
“Pháp Ta chứng được, sâu xa vi diệu, khó hiểu khó thấy, tịch mặc vô vi, người trí mới biết, kẻ ngu không thấy. Chúng sinh thích đắm chìm trong vực thẳm tam giới1, các nghiệp kết nhóm, làm sao mà hiểu được pháp mười hai nhân duyên thậm thâm vi diệu sâu xa này! Lại nữa, việc dứt hẳn tất cả các hành, cắt đứt và đoạn tận các dòng chảy của dục ái, chứng nhập Vô dư niết bàn là việc vô cùng khó khăn. Nếu Ta vận chuyển bánh xe chính pháp chỉ là uổng công vô ích mà thôi!”2
1 Phạm Thiên tương ưng 6, thuộc Tương ưng bộ chép: “Chúng sinh vui A lại da, thích A lại da, ưa A lại da”, Nam truyền, quyển 12, trang 234.
2 Phật Đà Thập, Trúc Đạo Sinh dịch, Di sa tắc bộ Hòa hê ngũ phần luật, quyển 15. Đại chính tạng, quyển 22, trang 103c.
Pháp Phật là sâu xa nhiệm mầu, nhưng không phải là sự tinh thâm của học vấn thế tục, thế nhưng, mấu chốt bản tính của chúng sinh (thú tính, nhân tính, thần tính) không dễ dàng phá bỏ, cho nên rất khó đạt được giải thoát. Theo truyền thuyết: vị thần tối cao (Ấn Độ giáo gọi là Phạm Thiên), tự cho mình là bậc sáng tạo ra loài người và thế giới, vị này đã ba phen ân cần thỉnh Phật thuyết pháp: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng là chúng sinh khó mà độ thoát, nhưng cũng có những người căn tính lanh lợi có thể đạt được giải thoát”. Vì thế đức Thế Tôn mới quyết định đến Ba La Nại (Vārānasi) thuộc nước Ca Thi (Kāśi), nay là Benares, vận chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên, độ năm vị Tỳ kheo.
Cũng theo truyền thuyết, bậc Luân vương thống trị thiên hạ, lúc đi thì có “xe báu” (luân bảo) đưa đi, luân bảo bay đến đâu thì người ở đó liền quy phục và tiếp nhận giáo lệnh. Đức Thế Tôn nương vào con đường bát chính đạo (Āryāstāngika-mārga) như vị Chuyển luân vương nương vào luân bảo mà thành tựu chính giác. Bát chính đạo chính là Pháp, cho nên nói: “Chính kiến là pháp, cho đến… chính định là pháp”1. Đức Thế Tôn tuyên thuyết chính pháp, các đệ tử vâng giữ và thọ trì, y pháp mà tu hành, bát chính đạo dần dần hiện rõ trong tâm họ. Từ Phật tâm, con đường tám nhánh này (bát chính đạo) đã được chuyển đến tâm hàng đệ tử, nhờ đó mà hàng phục được tất cả phiền não, giống như bánh xe báu của Luân vương, từ nơi này đi đến nơi khác, hàng phục tất cả, cho nên gọi là chuyển luân. Trong quá trình hoằng truyền chính pháp, đức Phật đã dùng con đường giải thoát tám nhánh này làm cơ sở. Đức Phật sống cùng với chúng Tỳ kheo, xây dựng nếp sống hòa hợp và hình thành nên một Tăng đoàn (Saṅgha) - cùng nếm hương vị ngọt ngào của pháp vị và cùng chia sẻ tài vị2. Không bao lâu sau, số đệ tử xuất gia theo Phật đã lên đến trên trăm người, đức Thế Tôn bắt đầu ủy thác cho các đệ tử phân chia nhau đi hoằng truyền chính pháp khắp nơi: “Các thầy chia nhau mỗi người mỗi phương mà đi! Ở đời có rất nhiều người hiền thiện có khả năng tiếp nhận sự giáo giới… các Tỳ kheo đã tiếp nhận giáo pháp rồi, hãy chia nhau mà đi”1. Vì thế, không lâu sau giáo pháp của đức Phật đã được lan truyền một cách nhanh chóng và rộng rãi.
1 Tạp A hàm kinh, quyển 28. Đại chính tạng, quyển 2, trang 911.
2 Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch, Tứ phần luật, quyển 32. Đại chính tạng, quyển 23, trang 789a.
1 Phật Đà Thập, Trúc Đạo Sinh dịch, Di sa tắc bộ Hòa hê ngũ phần luật, quyển 16. Đại chính tạng, quyển 22, trang 108a; Đại phẩm luật, Xích đồng diệp bộ, Nam truyền, quyển 3, trang 39-40.
Bước qua năm thứ hai, Ngài du hóa đến thành Vương Xá, gặp lại vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra), tại đây nhà vua được đức Phật hóa độ. Và cũng tại thành Vương Xá này, đức Phật độ hai đệ tử lớn, đó là Xá Lợi Phất (Śāriputtra) và Đại Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana) gia nhập Tăng đoàn của Phật. Trong giai đoạn này, chúng đệ tử xuất gia đã lên đến một ngàn hai trăm năm mươi người. Đức Thế Tôn thống nhiếp chúng Tăng bằng chính pháp, khiến cho chúng Tăng sống trong đời sống tập thể “hòa lạc thanh tịnh”.
Nghĩa chữ Tăng già là “chúng” (số đông), là tập hợp có tổ chức. Trong chúng Tăng, mọi người sống một cách bình đẳng, tuân theo sự giáo hóa bằng đức hạnh và giới pháp - sống theo giới luật. Ở trong Tăng đoàn, mọi người cùng sách tấn lẫn nhau, giáo giới lẫn nhau, động viên khích lệ lẫn nhau trên những nguyên tắc hòa - đoàn kết, lạc - thân tâm an lạc, thanh tịnh - kiện toàn Tăng già, nỗ lực với việc tu chứng và xiển dương chính pháp. Chính vì lý do đó mà đức Phật từng khuyên Ưu Ba Ly (Upāli) sống trong tăng chúng, khuyên Đại Ca Diếp (Mahākāśyapa) bỏ hạnh đầu đà về sống với tăng chúng.
Đương thời, nếu ai lìa chúng, tinh chuyên khổ hạnh, sẽ được dân chúng (miền Đông) của Ma Kiệt Đà và Anga rất mực sùng kính, nhưng trên tinh thần giới luật của đức Phật chế thì chú trọng về sự hòa hợp của tập thể Tăng già. Tăng già là hình ảnh cụ thể của Phật pháp tồn tại ở nhân gian.
Đức Thế Tôn không ngừng bình đẳng giáo hóa khắp những vùng dọc hai bờ của sông Hằng. Hơn năm mươi tuổi về sau, sức khỏe của Ngài bắt đầu giảm sút, tuy vẫn du hành giáo hóa, nhưng phần nhiều Ngài sống ở thành Xá Vệ.
Đức Phật cùng các thánh đệ tử miệt mài trên đường giáo hóa, làm cho Phật pháp ngày càng hưng thịnh, lan rộng, phổ biến khắp mọi nơi. Nhưng vào những năm cuối của cuộc đời đức Phật, trong giáo đoàn chẳng may lại xảy ra những việc đáng tiếc, có lẽ âu đó cũng là chuyện thường tình của thế gian!
Thứ nhất, việc “phá Tăng” - phản giáo của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta): Lúc ấy, trong Tăng đoàn, mối quan hệ của những vị Tỳ kheo ở miền Đông của dòng họ Thích tương đối chặt chẽ, vì họ nghĩ rằng Phật pháp là của họ. Đức Thế Tôn có người em họ tên Đề Bà Đạt Đa từ lâu đã có mưu đồ lãnh đạo tăng chúng, nhưng đức Phật không chấp nhận. Theo Ngài, Phật pháp không thuộc riêng một chủng tộc hoặc một quốc gia nào, mà là của toàn nhân loại trên thế giới, không nên để một chủng tộc làm chủ lãnh đạo. Đức Phật đã từng dạy: “Như Lai không nhiếp thọ đại chúng, cũng không có giáo lệnh”1. Đức Thế Tôn không tự cho mình là người lãnh đạo thống nhiếp đại chúng, và cũng không nghĩ sẽ giao cho các đệ tử lớn làm như vậy, huống gì là Đề Bà Đạt Đa! Chính vì thế, Đề Bà Đạt Đa đã dứt khoát cùng năm trăm vị Tỳ kheo sơ học rời khỏi giáo pháp, tự lập giáo giới riêng, đề xướng năm pháp khổ hạnh là đạo. Trong sự kiện phá tăng này có việc Đề Bà Đạt Đa lăn đá từ trên cao xuống muốn làm hại đức Phật, nhưng chỉ đụng ngón chân Ngài chảy máu.
1 Du hành kinh 2, thuộc Trường A hàm kinh. Đại chính tạng, quyển 1, trang 15a; Đại bát Niết bàn kinh 16, thuộc Trường bộ kinh, Nam truyền, quyển 7, trang 67.
Tuy nhờ hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đảm nhận trách nhiệm thuyết pháp, khiến cho những Tỳ kheo sơ học quay về lại trong Tăng già của Phật pháp, nhưng điều bất hạnh phân chia của giáo đoàn chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến Phật pháp về sau2.
2 Ấn Thuận, Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi khởi nguyên dữ khai triển, Chính Văn xuất bản xã, Dân Quốc năm 70 (1981), chương thứ sáu, trang 316-318.
Thứ hai, dòng tộc Thích Ca bị diệt vong: Dòng họ Thích Ca (Śākya) sớm đã trở thành thuộc địa của nước Kiều Tát La (Kośala), những năm cuối đời của đức Thế Tôn, dòng tộc của Ngài bị quân đội Kiều Tát La tàn sát. Địa khu của dòng họ Thích Ca sinh sống tương đối nhỏ hẹp, nhân số ít, lại chịu chính sách cai trị của cường quốc lân bang đối với thuộc địa, nên bị hủy diệt là việc không thể tránh khỏi. Tận mắt nhìn thấy sự bất hạnh của Tổ quốc và dòng tộc mình, đức Thế Tôn làm sao có thể cầm lòng được!
Thứ ba, sự ra đi của hai đại đệ tử Xá Lợi Phất (Śāri-putra) và Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana): hai Tôn giả được xem là “song hiền đệ tử”. Những năm tuổi xế chiều của đức Thế Tôn, Ngài cùng các đệ tử vẫn du hóa khắp nơi, khiến cho Phật pháp được phát triển mở mang một cách nhịp nhàng. Nhưng điều chẳng may lại đến với giáo đoàn của đức Phật, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên vì sự tập kích của Bà la môn giáo bị thương quá nặng mà viên tịch; Tôn giả Xá Lợi Phất cũng vì tuổi tác quá cao, nên cáo biệt hồi hương để nhập Niết bàn. Như thế, đối với việc phát triển và khai mở Phật pháp, sự ra đi của hai Tôn giả là một sự mất mát lớn lao không gì bằng. Như trong Tạp A hàm kinh ghi: “Đức Phật bảo A Nan và đại chúng… Nếu ở phương ấy có Xá Lợi Phất an trụ thì phương ấy Ta không lo lắng gì cả”; “Ta nhìn khắp trong đại chúng mà thấy trống vắng, vì Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã vào Niết bàn. Trong chúng Thanh văn đệ tử ta chỉ có hai người này khéo thuyết pháp, giáo giới, dạy dỗ, biện thuyết đầy đủ. Có hai thứ tài sản tiền tài và pháp tài. Tiền tài thì tìm cầu từ người thế gian. Pháp tài thì tìm cầu từ Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên”1. Vào những năm tuổi xế chiều, phải chứng kiến những việc chẳng may liên tiếp xảy ra với bản thân và Tăng đoàn, nhưng đức Thế Tôn luôn dùng sự từ bi, nhẫn nhục và trí tuệ của mình để xử lý và đón nhận, đây cũng là chuyện thường tình của thế gian!
1 Tạp A hàm, quyển 24. Đại chính tạng, quyển 2, trang 177a.
Năm đức Thế Tôn tám mươi tuổi, an cư tại thành Tỳ Xá Ly, năm ấy cũng là năm cuối cùng của cuộc đời Ngài. Lúc đó, sức khỏe của Ngài đã yếu đi một cách trầm trọng, Thế Tôn tự mình nói với chúng đệ tử là bản thân Ngài giờ đây như là cỗ xe bị mục nát… Ba tháng an cư vừa kết thúc, đức Thế Tôn cùng Tôn giả A Nan và đại chúng Tỳ kheo đi về hướng Bắc. Đến Ba Bà, Ngài thọ nhận bữa cơm cúng dường của Thuần Đà, khiến bệnh của Ngài trở nên nguy kịch. Ngài gắng sức đi về hướng Câu Thi Na (Kuśinara), vừa đến nơi thì đã nửa đêm, và ngay đêm hôm đó đức Thế Tôn nhập Niết bàn (parinirvāna) giữa hai cây Sa la. Trước khi vào Niết bàn, tuy sức khỏe của Ngài đã rất yếu, nhưng đức Phật vẫn trong tư thế an định, hóa độ cho ông Tu Bạt Đà La (Subhadra) làm đệ tử cuối cùng. Ngài còn ân cần dạy chúng đệ tử: “Nên biết những kinh và giới mà Ta đã dạy từ khi thành đạo đến nay là chỗ nương tựa, che chở cho các thầy”1; không nên cho rằng, đức Thế Tôn vào Niết bàn rồi là không còn chỗ nương tựa. “Các hành là vô thường, tinh tấn đừng có buông lung, đây là lời dạy cuối cùng của Như Lai”2. Các hành là vô thường, tất nhiên phải biến hoại, sắc thân của Phật cũng không ngoài sự chi phối của quy luật ấy. Điều tối quan trọng là y theo lời Phật dạy mà tinh tấn tu hành, cho nên nói: “Về sau các đệ tử của Ta truyền nhau, sách tấn nhau mà tu hành, thì đó là pháp thân thường tại bất diệt”3. Đức Phật vào Niết bàn giữa nhân gian, cũng là một sự ra đi. Chúng sinh bị luân hồi sinh tử không có kỳ hạn, bậc Chính giác khi thành tựu cứu cánh giải thoát vào Niết bàn sẽ như thế nào? Đại Ca Chiên Diên (Mahākātyāyana) nói với Bà Sa (Vātsī): “Không thể nói sau khi đức Thế Tôn vào Niết bàn là có, cũng không thể nói sau khi đức Thế Tôn vào Niết bàn rồi là không, nói sau khi Thế Tôn vào Niết bàn cũng có mà cũng không, hoặc chẳng có cũng chẳng không, đều không thể nói như thế”4. Vậy thì nên nói như thế nào? “Chỉ có thể nói là không thể trình bày, bởi Niết bàn là rốt ráo”5. Niết bàn là siêu việt, không thể lấy cái tồn tại và không tồn tại của thế gian mà biểu đạt được. Vấn đề này không thể dùng sự phân biệt và ngôn ngữ mà giải thích được, chỉ có thể nói: “Đã giải thoát hoàn toàn khỏi nỗi đau khổ bức bách của sinh tử vô hạn”.
1 Du hành kinh 2, thuộc Trường A hàm. Đại chính tạng, quyển 1, trang 26a.
2 Đại bát Niết bàn kinh 16, Trường bộ kinh, Nam truyền, quyển 7, trang 144; Du hành kinh 2, Trường A hàm. Đại chính tạng, quyển 1, trang 26b.
3 Cưu Ma La Thập dịch, Phật thùy đại bát Niết bàn lược thuyết giáo giới kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 1112b.
4 Tạp A hàm, quyển 34. Đại chính tạng, quyển 2, trang 244c-245a.
5 Huyền Trang dịch, Bổn sự kinh, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 17, trang 678a.